|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 29(11)
, Tháng 11/2018, Trang 05-24
|
|
Ảnh hưởng của chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Nghiên cứu thực nghiệm tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam |
|
Tran Thi Giang Tan & Tang Thi Thanh Thuy |
DOI:
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua chi phối chính sách kế toán tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mẫu nghiên cứu bao gồm 92 công ty niêm yết (với 368 quan sát) trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội trong giai đoạn 2014–2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ được đo lường bằng năng lực chuyên môn, tính khách quan và quy mô cho hoạt động này có ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả kiến nghị các công ty niêm yết cần tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ có chất lượng, trong đó chú ý đến năng lực chuyên môn, tính khách quan, quy mô kiểm toán nội bộ như là phương tiện giám sát nhà quản lý đối với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Về phương diện kiểm toán, khi sử dụng công việc của kiểm toán viên nội bộ, cần chú ý chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ thể hiện qua năng lực chuyên môn, tính khách quan và quy mô của kiểm toán nội bộ để xác định phạm vi, nội dung và thủ tục kiểm toán tiếp theo.
Từ khóa
Kiểm toán nội bộ; Chất lượng kiểm toán nội bộ; Hành vi điều chỉnh lợi nhuận; Biến dồn tích bất thường.
|
Download
|
|
Nhận thức về hành vi tẩy xanh trong ngành mỹ phẩm: Vai trò điều tiết của tính xác thực xanh và tính minh bạch xanh
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Áp dụng phương pháp định lượng, nghiên cứu đã tiến hành triển khai phân tích dữ liệu từ 692 khách hàng của các doanh nghiệp mỹ phẩm xanh thông qua nền tảng khảo sát trực tuyến và trực tiếp. Dữ liệu thu thập được tiến hành xử lý thông qua các bước kiểm định độ tin cậy, phân tích mô hình đo lường, mô hình cấu trúc tuyến tính SEM bậc hai, và phân tích biến điều tiết trên phần mềm Smart PLS 4.0. Kết quả nghiên cứu cho thấy: (01) Nhận thức của khách hàng về tẩy xanh có tác động tiêu cực đến lòng tin xanh, từ đó làm giảm ý định mua xanh của khách hàng. (02) Lòng tin xanh đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa nhận thức về tẩy xanh và ý định mua xanh. (03) Tính xác thực xanh và tính minh bạch xanh là yếu tố điều tiết quan trọng, giúp giảm thiểu đáng kể ảnh hưởng tiêu cực của nhận thức về tẩy xanh đến lòng tin xanh và tăng cường mối quan hệ tích cực giữa lòng tin xanh và ý định mua xanh. Dựa trên kết quả này, các khuyến nghị và đề xuất chính sách được đưa ra cho các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp mỹ phẩm xanh và khách hàng.
Ảnh hưởng của quản trị doanh nghiệp và đa dạng hóa ngân hàng đến sự ổn định của ngân hàng thương mại Việt Nam: Ước lượng SYS-GMM
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Mục đích chính của nghiên cứu này là vận dụng mô hình hồi quy xu hướng tổng quát có hệ thống (SYS-GMM) đánh giá tác động của quản trị doanh nghiệp và đa dạng hóa ngân hàng (Đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa tài sản) đến sự ổn định của 26 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2011–2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa tài sản có mối tương quan âm với chỉ số Z-score của các NHTM. Ngược lại, quy mô hội đồng quản trị (HĐQT), số lượng thành viên nữ, số lượng thành viên ban tổng giám đốc (TGĐ), tỷ lệ sở hữu nhà nước, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tác động tích cực đến sự ổn định của các NHTM Việt Nam. Số lượng thành viên HĐQT độc lập, tỷ lệ sở hữu HĐQT chưa tạo động lực để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro của các NHTM. Bên cạnh đó, sự tham gia của các yếu tố quản trị doanh nghiệp làm tăng cường độ tác động của đa dạng hóa tài sản đến sự ổn định của các NHTM và đây là điểm khá thú vị của nghiên cứu này. Nhóm tác giả đã đề xuất một số hàm ý chính sách đối với quản trị doanh nghiệp và đa dạng hóa thu nhập và đa dạng hóa tài sản nhằm tăng cường sự ổn định của NHTM Việt Nam.
<br><br>Abstract<br>
The purpose of this paper is to apply systematic generalized method of moments (SYS-GMM) regression model to evaluate the impact of corporate governance and bank diversification (including income and asset diversification) on the stability of 26 Vietnamese commercial banks over the period of 2011–2022. The results indicate that income and asset diversification are negatively correlated with the banks' Z-score. In contrast, factors such as the board size, the number of female board members, the number of general directors, state ownership percentage, and foreign ownership percentage positively influence the stability of Vietnamese commercial banks. However, the number of independent board ownership and the board ownership do not contribute to enhancing the banks' risk management efficiency. Additionally, corporate governance mechanisms strengthen the impact of asset diversification on the stability of commercial banks, which is a noteworthy finding of this study. The authors propose several policy implications for improving corporate governance, income diversification, and asset diversification to enhance the stability of Vietnamese commercial banks.
Download
Đặc điểm của doanh nghiệp gian lận Báo cáo tài chính, phương thức gian lận và mục đích thực hiện gian lận - Nghiên cứu tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
TÓM TẮT : Nghiên cứu này tập trung nhận diện hành vi gian lận Báo cáo tài chính (GLBCTC) của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam dựa trên lý thuyết về tam giác gian lận của Cressey (1953). Cụ thể, nghiên cứu nhằm nhận diện các khoản mục, tỷ số trên Báo cáo tài chính (BCTC) có sự nhạy cảm với hành vi GLBCTC trên ba khía cạnh là: đặc điểm doanh nghiệp gian lận, phương thức gian lận và mục đích gian lận. Với dữ liệu bao gồm 3.370 quan sát từ 350 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam từ năm 2013 đến năm 2022 cho thấy các doanh nghiệp có tỉ lệ nợ cao, hay có vốn chủ sở hữu lớn đều gia tăng hành vi GLBCTC, với hình thức gian lận là khai khống doanh thu và khai thiếu chi phí, để làm đẹp các chỉ số về khả năng thanh toán (biểu hiện qua khả năng đảm bảo lãi vay), các chỉ số về khả năng sinh lời (biểu hiện qua EPS), và các chỉ số về hoạt động (biểu hiện qua số vòng quay hàng tồn kho). Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng về mối quan hệ hình chữ U giữa đặc điểm của doanh nghiệp có tỉ lệ nợ cao, hay vốn chủ sở hữu lớn, một cách riêng lẻ, với khả năng GLBCTC. Cụ thể khi tỉ lệ nợ, hoặc vốn chủ sở hữu còn ở mức thấp thì doanh nghiệp hạn chế thực hiện hành vi gian lận, nhưng khi quy mô này tăng lên thì doanh nghiệp gia tăng thực hiện GLBCTC. <br><br> Abstract <br>
The research aims to identify factors affecting financial statement fraud in three aspects including characteristics of fraudulent companies, methods of fraud schemes, and motivations to commit fraud. The data used includes 3.370 observations from 350 companies listed on the Vietnamese stock exchange from 2013 to 2022. Research results show that companies with high debt ratios or large equity more likely to have committed financial statement fraud. Two common fraud schemes are the overstatement of sales and understatement of expenses, aimed at increasing solvency ratios (e.g., interest coverage ratio), profitability (e.g., earnings per share), and activity (e.g., inventory turnover). More importantly, the study provides evidence of a U-shaped relationship between companies with high debt ratios or large equity and fraudulent financial reporting. Specifically, when the debt or equity ratio is low, companies are less likely commit frauds. However, as the size of equity or debt increases, the likelihood of financial statement fraud also rises.
Download
Vai trò của năng lực tri thức trong mối quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược và kết quả hoạt động của công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu kiểm tra mối liên hệ giữa các mục tiêu chiến lược và kết quả hoạt động của công ty và vai trò trung gian của năng lực tri thức trong mối quan hệ này. Kết quả phân tích dựa trên khảo sát 190 nhà quản lý của các doanh nghiệp đầu tư tại các khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh cho thấy mối quan hệ giữa mục tiêu tối đa hóa chi phí và kết quả hoạt động của công ty có ý nghĩa thống kê, nhưng mối quan hệ giữa mục tiêu đa dạng hóa và kết quả hoạt động của công ty không có ý nghĩa thống kê. Năng lực tri thức đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này. Cụ thể, năng lực tri thức theo chiều rộng đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược và kết quả hoạt động, nhưng năng lực tri thức theo chiều sâu chỉ đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa mục tiêu đa dạng hóa và kết quả hoạt động. Kết quả này đã đóng góp cho lý thuyết về nguồn lực thông qua việc khám phá thêm một năng lực chiến lược mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm, đó là năng lực tri thức. Nghiên cứu cũng gợi ý một số hàm ý quản trị giúp các nhà quản lý đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh thúc đẩy kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. <br><br> Abstract <br>
This study investigates the impact of strategic goals on performance growth and the mediating role of knowledge capabilities in these relationships. Based on a data set of 190 managers investing in industrial zones in Ho Chi Minh City, this study found that cost goals were significantly related to performance growth, while differentiation goals did not. Knowledge capabilities mediated the relationship between strategic goals and performance growth. Specifically, knowledge breadth mediated the relationships between strategic goals and performance growth, while knowledge depth mediated the relationship between differentiation goals and performance growth. These results contributed to the literature on resource-based view theory by introducing strategic capabilities for Vietnamese firms, which are knowledge capabilities. Then, the result implies some practical contributions for firms in Ho Chi Minh City to enhance performance growth.
Download
Ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty gia đình niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trước và trong đại dịch COVID-19
2023, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Vấn đề hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) là yêu cầu cần thiết đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản trị điều hành với mục đích tạo điều kiện cho hội đồng quản trị (HĐQT) giám sát lợi nhuận, tuy nhiên để đạt mục tiêu của mình, HĐQT có thể lợi dụng công cụ kế toán để làm sai lệch báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho thành viên quản lý xuất phát từ công ty gia đình, đặc biệt do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Chính vì vậy, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của bốn đặc điểm của HĐQT đến hành vi QTLN trong các công ty gia đình niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trước và trong đại dịch COVID-19. Dữ liệu gồm 123 công ty gia đình niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội từ 2016 – 2021 tạo thành 738 quan sát. Nghiên cứu chỉ ra rằng Quy mô HĐQT, tính Độc lập của HĐQT có tác động ngược chiều đến hành vi QTLN; trong khi, Chuyên môn trong lĩnh vực kế toán tài chính của HĐQT, và các cuộc họp HĐQT có tác động cùng chiều đến hành vi QTLN trong giai đoạn COVID-19. Bên cạnh đó, Quy mô HĐQT và tính Độc lập của HĐQT ở giai đoạn trước đại dịch COVID-19 không ảnh hưởng đến hành vi QTLN. <br><br> Abstract <br>
Earnings management plays a significant role within the operational management process, aimed at facilitating the supervisory function of the Board of Directors (BOD) over profit-related matters. Nevertheless, in pursuit of their objectives, the BOD may exploit accounting tools to manipulate financial reporting in a direction advantageous to the executive members, particularly emanating from family-owned firms, exacerbated notably by the impact of the COVID-19 pandemic. Therefore, this paper examines four characteristics of BOD that influence earnings management in family-owned firms listed on the Vietnamese stock market before and during the COVID-19 pandemic. The data consists of 123 family firms listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange and the Hanoi Stock Exchange from 2016 to 2021, resulting in 738 observations. The study reveals that BOD size and BOD independence negatively impact earnings management; whereas expertise in financial accounting, and the frequency of BOD meetings positively impact earnings management during the COVID-19 period. Additionally, BOD size and BOD independence in the pre-COVID-19 period do not influence earnings management.
Download
|