Tác động của đặc trưng hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chu Thi Thu Thuy
DOI:
Email: thuyctt@thanglong.edu.vn
Đơn vị công tác: dai hoc Thang Long
Ngày nhận bài: 01/06/2020
Ngày nhận bài sửa: 17/12/2020
Ngày duyệt đăng: 01/03/2020
Ngày xuất bản: 01/06/2020
Lượt xem: 13
Downloads: 1
Các định dạng trích dẫn
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định ảnh hưởng của đặc trưng hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu ứng dụng phương pháp hồi quy bảng với sự hỗ trợ của phần mềm Stata 14. Mẫu nghiên cứu được sử dụng gồm 654 công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2016¬–2018. Nghiên cứu đã chứng minh được ảnh hưởng của đặc trưng hội đồng quản trị đến hiệu quả tài chính của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó: Sự kiêm nhiệm của hội đồng quản trị và quy mô hội đồng quản trị có ảnh hưởng cùng chiều đến hiệu quả tài chính (ROA) tại mức ý nghĩa 5%; số lượng các cuộc họp của hội đồng quản trị và số lượng các thành viên độc lập trong hội đồng quản trị có ảnh hưởng đáng kể và ngược chiều đến hiệu quả tài chính; tuy nhiên, sự đa dạng về giới tính của hội đồng quản trị không có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5%.
Từ khóa
Hội đồng quản trị, công ty cổ phần, thị trường chứng khoán Việt Nam, Hiệu quả tài chính.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của thanh khoản cổ phiếu đến việc cung cấp tín dụng thương mại của công ty, dựa trên mẫu dữ liệu gồm 3.218 quan sát của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006–2024. Kết quả thực nghiệm cho thấy mối quan hệ dương, có ý nghĩa thống kê và kinh tế giữa tính thanh khoản cổ phiếu và tín dụng thương mại, hàm ý rằng các doanh nghiệp có cổ phiếu thanh khoản cao có xu hướng cung cấp tín dụng thương mại nhiều hơn. Kết quả này vẫn được duy trì khi sử dụng các thước đo biến số khác nhau, khi thay đổi mô hình ước lượng, và khi kiểm soát vấn đề nội sinh. Về mặt chính sách, kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán như một kênh hỗ trợ mở rộng tín dụng thương mại, từ đó góp phần phát triển chuỗi cung ứng và tăng trưởng kinh tế. <br><br> Abstract <br>
This study analyzes the influence of stock liquidity on firms’ provision of trade credit, based on a sample of 3,218 observations of firms listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange (HOSE) during the period 2006–2024. The empirical results show that the relationship between stock liquidity and trade credit is positive, and statistically and economically significant, implying that firms whose stocks are highly liquid tend to provide more trade credit. These results remain robust to different measures of variables, alternative model specifications, and controlling for endogeneity. From a policy perspective, the study emphasizes the importance of improving stock market liquidity as a channel to support trade credit provision, thereby contributing to supply chain development and economic growth.
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài nghiên cứu này kiểm định ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính lên quản trị thu nhập ở các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn 20092017. Tác giả sử dụng phương pháp GMM để kiểm định mối quan hệ này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa kiệt quệ tài chính và quản trị thu nhập. Quan trọng hơn, nghiên cứu này khác biệt với những nghiên cứu trước đây ở chỗ tiến hành xem xét mở rộng thêm tác động của cấu trúc sở hữu, quy mô doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng lên mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và quản trị thu nhập. Kết quả hồi quy cho thấy sở hữu nước ngoài, tốc độ tăng trưởng, và quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng làm giảm tác động cùng chiều của kiệt quệ tài chính đến quản trị thu nhập, trong khi đó, tác động của sở hữu nhà nước lại không có ý nghĩa thống kê.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết này kiểm định ảnh hưởng của tính bất định chính sách kinh tế đến mức độ phát thải carbon và ý nghĩa kinh tế đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp của năm quốc gia thuộc khu vực Châu Á. Dựa trên mẫu dữ liệu gồm 21.501 quan sát trong giai đoạn 2002-2022 và vận dụng phương pháp hồi quy GMM, kết quả nghiên cứu cho thấy tính bất định của chính sách kinh tế có mối tương quan thuận chiều với mức độ phát thải carbon ở cấp độ doanh nghiệp. Tác động này mạnh hơn đối với các công ty đang hoạt động tại các quốc gia có mức độ kiểm soát tham nhũng kém. Hơn nữa, bất định trong chính sách kinh tế làm suy giảm đáng kể hiệu suất hoạt động của các tổ chức kinh doanh có mức độ phát thải cao. <br><br>Abstract<br>
This paper investigates the effect of economic policy uncertainty on carbon emission intensity and its economic significance for firm performance in five countries within the Asia region. Based on a dataset comprising 21,501 observations from the period 2002 to 2022 and employing two-step System-GMM regression, the study finds that economic policy uncertainty is positively correlated with firms’ carbon emission levels. This effect is more pronounced for firms operating in countries with poor control of corruption. Furthermore, facing economic policy uncertainty significantly reduces the performance of firms with high emission intensity.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu sử dụng mô hình VAR và phương pháp kiểm định nhân quả Granger để phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến rủi ro hệ thống của các tổ chức tài chính (TCTC) tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020. Đo lường rủi ro hệ thống được tính bằng chỉ số mức tổn thất kỳ vọng biên (Marginal Expected Shortfall-MES) với số liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 29 TCTC chính. Chính sách tiền tệ được đo bằng lãi suất chính sách và hoạt động kinh tế thực được đại diện bởi lạm phát và chênh lệch sản lượng thực và sản lượng tiềm năng của nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chính sách tiền tệ có tác động nhân quản Granger đến rủi ro hệ thống của các TCTC tại Việt Nam, đồng thời phản ứng của rủi ro hệ thống của các TCTC trước các cú sốc từ chính sách tiền tệ là khác nhau giữa hai giai đoạn 2010-2012 và 2013-2020. Với kết quả này, Ngân hàng nhà nước cần cân nhắc vai trò của chính sách tiền tệ đến rủi ro hệ thống của cácTCTC, từ đó góp phần thúc đẩy quá trình thăng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai.<br><br> <strong> Abstract </strong> <br>
The study uses the VAR model and Granger causality test to analyze the impact of monetary policy on the systemic risk of financial institutions in Vietnam from 2010 to 2020. The systemic risk of 29 financial institutions in Vietnam is measured by the Marginal Expected Shortfall (MES) method. The Monetary policy data is represented by the monetary policy interest rate while the economic performance is measured by the inflation rate and output gap of Vietnam’s economy. Research results show that monetary policy has a Granger causal effect on the systemic risk of financial institutions in Vietnam. The response of systemic risk to monetary policy shocks is different between the 2010–2012 period and 2013–2020 period. Based on this result, the State Bank of Vietnam needs to consider the role of monetary policy on systemic risks of the financial institution; thereby contributing to promoting Vietnam's stock market promotion in the future.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Sử dụng dữ liệu từ 431 ngân hàng thương mại tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 2006-2021, nghiên cứu này phân tích tác động của rủi ro địa chính trị đến rủi ro phá sản của ngân hàng thương mại. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rủi ro địa chính trị làm gia tăng rủi ro phá sản của ngân hàng. Trong đó các sự kiện địa chính trị gây ra tác động tiêu cực lớn hơn đến rủi ro ngân hàng so với các mối đe dọa địa chính trị. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phát hiện ra rằng rủi ro địa chính trị làm tăng rủi ro phá sản ngân hàng thương mại thông qua việc làm giảm lợi nhuận và làm tăng biến động lợi nhuận của ngân hàng. <br><br>Abstract<br>Using a panel of 431 commercial banks in the United States over the period 2006–2021, this paper examines the impact of geopolitical risk on bank risk-taking. Our regression results indicate that geopolitical risk increases bank default risk. Delving into the components of geopolitical risk, the authors find that the negative effects of geopolitical acts on bank risk-taking are more pronounced than those of geopolitical threats. Besides, the authors find that reducing bank profitability and increasing earnings volatility are two channels through which geopolitical risk increases bank risk-taking