|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 35(8)
, Tháng 8/2024, Trang 04-24
|
|
Phát triển tài chính và chuyển đổi năng lượng tái tạo: Vai trò điều tiết của công nghệ môi trường |
Financial development and renewable energy transition: The moderating rold of environment-related technologies |
Ngô Minh Vũ & Nguyễn Hoàng Long & Trần Thị Thảo Quyên & Phan Chung Thủy |
DOI:
Tóm tắt
Bài nghiên cứu xem xét cách công nghệ liên quan đến môi trường (Environment-Related Technologies ‒ ERT) điều tiết sự tác động của phát triển tài chính (Financial Development ‒ FD) lên tiêu thụ năng lượng tái tạo (Renewable Energy Consumption ‒ REC), từ đó cung cấp góc nhìn toàn diện về sự tương tác giữa các yếu tố trong quá trình chuyển đổi năng lượng của các quốc gia trên thế giới. Sử dụng bộ dữ liệu từ 165 quốc gia trong giai đoạn 1990‒2021, nhóm tác giả áp dụng các mô hình hệ thống (GMM) hai bước và hồi quy ngưỡng bảng động để phân tích các tương tác phức tạp giữa FD, ERT, và REC. Kết quả của nhóm cho thấy rằng hiệu ứng điều tiết của ERT lên mối quan hệ giữa FD và REC này được thể hiện trong tất cả 9 biến đại diện cho FD. Hơn nữa, bài nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối liên hệ phi tuyến tính giữa FD và REC. Cụ thể hơn, tại ngưỡng ERT ở giá trị 21,04%, có sự thay đổi trong tác động của FD lên REC. Tuy nhiên, ngưỡng điều tiết này của ERT có sự khác biệt giữa các nền kinh tế khác nhau. Những kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của các chính sách phát triển công nghệ hướng đến môi trường trong việc điều tiết các tiến bộ của ngành tài chính đến chuyển đổi năng lượng tái tạo cho mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, với từng mức ngưỡng khác nhau của ERT, bài nghiên cứu cũng đề xuất các hàm ý chính sách phù hợp với từng nền kinh tế, bao gồm các chính sách ưu đãi cho các dự án công nghệ môi trường về thuế và tín dụng, phát triển công cụ tài chính môi trường như trái phiếu xanh và các chính sách giảm thiểu bất cân xứng thông tin nhằm giảm các vấn đề về gian lận nhãn dán xanh (Greenwashing).
Abstract
The study examines how environment-related technologies (ERT) moderate the impact of financial development (FD) on renewable energy consumption (REC), offering a comprehensive perspective on the interplay of these factors in the energy transition of countries worldwide. Using a dataset spanning 165 countries from 1990 to 2021, we employ two-step System Generalized Method of Moments (GMM) and dynamic panel threshold regression models to analyze the complex interactions between FD, ERT, and REC. Our findings reveal that ERT’s moderating effect on the relationship between FD and REC is evident across all nine proxies for FD. Furthermore, the study provides empirical evidence of a nonlinear relationship between FD and REC. Specifically, when ERT reaches the threshold value of 21.04%, there is a shift in FD's impact on REC. However, this threshold varies across different economies. These results underscore the critical role of environmentally oriented technological policies in regulating financial sector advancements to promote renewable energy transitions for sustainable development. Additionally, the study offers policy implications tailored to various economies based on different ERT thresholds. These include tax and credit incentives for environmental technology projects, the development of green financial instruments such as green bonds, and measures to reduce information asymmetry to address greenwashing issues.
Từ khóa
Công nghệ môi trường; Phát triển tài chính; chuyển đổi năng lượng tái tạo; phát triển bền vững Environmental-related technologies; Financial development; Renewable energy transition; Sustainable development.
|
Download
|
|
Hoạt động đổi mới và phát triển tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hoạt động đổi mới tại một số quốc gia Đông Nam Á (Việt Nam, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Bruney, Philippines). Nghiên cứu thu thập số liệu từ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới; và sử dụng phương pháp Pooled OLS, Random-Effects, Fixed-Effects. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phát triển định chế tài chính có tác động tích cực đến hoạt động đổi mới và phát triển kinh tế mới là nhân tố thúc đẩy hoạt động đổi mới của một số quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, hoạt động đổi mới của một số quốc gia Đông Nam Á còn rất thấp. Dựa vào kết quả nghiên cứu, các quốc gia Đông Nam Á cần có chính sách phù hợp để phát triển định chế tài chính, đặc biệt là chú trọng vào phát triển tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân trong nền kinh tế để tạo điều kiện cho các hoạt động đổi mới của khu vực tư nhân phát triển.
Download
Trái phiếu xanh quốc tế và thị trường chứng khoán Việt Nam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Tại Việt Nam, với sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu đầu tư xanh và những nỗ lực cấp bách trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, nghiên cứu này đóng góp vào các tài liệu mới nổi về đầu tư xanh bằng cách khám phá mối liên hệ thời gian - tần suất giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2014–2024. Để đạt được các mục tiêu này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp tương quan đa chiều cục bộ bằng wavelet (WLMC), có thể xác định mối liên hệ giữa các chỉ số ở nhiều giai đoạn và tần suất khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ mạnh mẽ giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính tại Việt Nam, cả tích cực lẫn tiêu cực, phụ thuộc vào từng giai đoạn thời gian và tần suất. Cụ thể, mối liên hệ tiêu cực nổi bật trong các giai đoạn ngắn và trung hạn (2–64 ngày), nhưng khi xét đến dài hạn (128–256 ngày) và đặc biệt là rất dài hạn (trên 512 ngày), mối quan hệ tích cực giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính trở nên rõ rệt hơn. Những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà hoạch định chính sách quan tâm đến đầu tư xanh và giảm thiểu biến đổi khí hậu. <br><br>
Abstract <br>
In Vietnam, the rapid increase in demand for green investments and urgent efforts to mitigate climate change have prompted this study, which contributes to the emerging literature on green investments by exploring the time-frequency relationship between green bonds and the financial market in Vietnam from 2014 to 2024. To achieve this, the authors employ the Wavelet Local Multiple Correlation (WLMC) method, which allows for identifying relationships between indices across various time scales and frequencies. The results reveal a strong nexus between green bonds and the financial market in Vietnam, exhibiting both positive and negative correlations depending on the specific time and frequency. Notably, the negative relationship is significant in the short- and medium-term periods (2–64 days), while the positive relationship between green bonds and the financial market becomes more pronounced in the long-term (128–256 days) and especially in the very long-term (over 512 days). These findings are significant for investors and policymakers focusing on green investments and climate change mitigation.
Download
Phân tích tác động của sự kiện chiến tranh Nga -Ukraine đến thị trường chứng khoán ASEAN-6
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết sử dụng dữ liệu hàng ngày của các nước ASEAN-6 để phân tích tác động của sự kiện Nga tấn công Ukraine ngày 24 tháng 2 năm 2022 đến thị trường chứng khoán của các quốc gia này. Phương pháp phân tích sự kiện với các khung cửa sổ sự kiện [-15,15] được áp dụng với các kiểm định Patell (1976), kiểm định Patell hiệu chỉnh, và kiểm định Boehmer. Kết quả kiểm định chung trên toàn khu vực cho thấy thị trường ASEAN có phản ứng khi sự kiện chiến tranh Nga - Ukraine. Sự sụt giảm của thị trường ngay trong ngày sự kiện cho thấy thị trường chứng khoán phản ứng tiêu cực với sự kiện và sự phản ứng này còn kéo dài ít nhất đến 15 ngày sau sự kiện. Tuy nhiên, sự tác động của sự kiện này đến từng quốc gia không giống nhau. Malaysia, Singapore và Philippines là có phản ứng rõ rệt nhất với sự kiện này. Kết quả nghiên cứu của bài báo cũng có những hàm ý nhất định đối với nhà đầu tư, khi mà các xung đột quân sự có thể tác động đến thị trường tài chính thì nhà đầu tư cần hiểu rõ tác động của sự kiện này để đưa ra quyết định đầu tư hợp lý, hoặc dựa trên những kinh nghiệm này để lập kế hoạch dự phòng rủi ro cho những diễn biến trong tương lai.
Khảo sát hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng thế giới trong giai đoạn trước và sau đại dịch COVID-19: Tiếp cận bằng các kiểm định nghiệm đơn vị phía phải
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài báo sử dụng giá vàng giao sau trên thị trường vàng thế giới trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2023 để kiểm định hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng. Bài báo sử dụng phương pháp kiểm định GSADF của Phillips và cộng sự (2015). Kết quả kiểm định chung trên toàn bộ mẫu số liệu cho thấy không có bong bóng trên thị trường vàng trong giai đoạn trước khi COVID-19 bùng phát trên toàn cầu nhưng trong giai đoạn COVID-19 bắt đầu lan rộng thì có hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng. Nếu xét chi tiết theo từng khung cửa sổ cuộn của kiểm định GSADF, có thể thấy rằng có ba khoảng thời gian mà thị trường vàng được ghi nhận xảy ra bong bóng. Một là, giai đoạn từ tháng 5 năm 2019 đến tháng 9 năm 2019 với sự kiện chiến tranh thương mại Mỹ – Trung xảy ra trước đó. Hai là, giai đoạn từ tháng 7 và tháng 8 năm 2020, là giai đoạn mà COVID-19 đang bùng phát mạnh và nhanh chóng lan ra toàn cầu, cùng với tuyên bố cấm nhập khẩu dầu từ Nga của chính quyền Mỹ và Anh. Ba là, thời điểm tháng 3 năm 2022, tương ứng với tình hình chiến sự giữa Nga và Ukraine. Đây đều là những mốc sự kiện chính trị quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường vàng nói riêng. <br><br> Abstract <br>
This article employs future gold prices in the global gold market from January 2017 to December 2023 to examine the existence of bubbles in the gold market. The statistical method used is the GSADF test by Phillips et al. (2015). The overall testing results across the entire dataset indicate no bubbles in the gold market prior to the global outbreak of COVID-19, but there is evidence of a bubble phenomenon during the onset of the COVID-19 pandemic. By using rolling window frames of the GSADF test, three periods are identified where bubble occurrences in the gold market are evident. Firstly, the period from May 2019 to September 2019 coincides with the U.S. – China trade war. Secondly, the period in July and August 2020, during the peak of the COVID-19 pandemic's rapid global spread, along with the announcement of the U.S. and UK governments banning oil imports from Russia. Thirdly, bubbles are found in March 2022, corresponding to the conflict between Russia and Ukraine. These are all significant political events impacting the entire global financial market, particularly the gold market.
Download
Khảo sát vai trò phòng hộ rủi ro của vàng với thị trường chứng khoán ASEAN6
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết tập trung vào việc kiểm định vai trò của vàng làm tài sản phòng hộ rủi ro và tài sản trú ẩn an toàn trên thị trường chứng khoán ASEAN6, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam. Kết quả cho thấy vàng có thể là công cụ phòng hộ rủi ro yếu cho Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, và là tài sản trú ẩn an toàn mạnh cho thị trường Singapore trong điều kiện thị trường biến động sụt giảm đến mức tỷ suất sinh lợi ở phân vị thấp nhất. Vàng cũng được xem là tài sản trú ẩn an toàn yếu ở tất cả các quốc gia còn lại trong ASEAN6. Phương pháp hồi quy phân vị được áp dụng để chi tiết hóa vai trò của vàng ở các mức phân vị sinh lợi khác nhau. Ở Indonesia và Philippines, vàng chỉ có thể đóng vai trò phòng hộ rủi ro khi tỷ suất sinh lợi vàng ở mức thấp. Ở Malaysia và Việt Nam, vàng có thể là tài sản phòng hộ rủi ro khi tỷ suất sinh lợi vàng rất cao hoặc rất thấp, và là tài sản trú ẩn an toàn khi tỷ suất sinh lợi vàng tăng ở mức cao. Ở Singapore và Thái Lan, vàng có thể là tài sản trú ẩn an toàn khi tỷ suất sinh lợi vàng giảm xuống ở mức thấp nhất. Kết quả nghiên cứu mang lại những hàm ý quản trị quan trọng cho nhà đầu tư, khuyến khích sự đa dạng hóa trong danh mục đầu tư và sử dụng thông tin về vai trò của vàng tại các mức giá khác nhau để xây dựng chiến lược thời điểm thị trường. <br><br> Abstract <br>
This article focuses on examining the role of gold as a risk hedge and safe - haven asset in the ASEAN6 stock markets, including Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thailand, and Vietnam. The results indicate that gold can be a weak risk hedge tool for the Philippines, Singapore, Thailand, and Vietnam, while serving as a strong safe - haven asset for Singapore, particularly in conditions of significant market volatility leading to negative returns. Gold is also considered a weak safe - haven asset in all other ASEAN6 countries. Quantile regression is employed to examine the role of gold at different quantiles of returns detail. In Indonesia and the Philippines, gold plays a risk hedge role only when gold prices are low. In Malaysia and Vietnam, gold can act as a risk hedge when gold returns are either very high or very low and as a safe - haven asset when gold returns increase significantly. In Singapore and Thailand, gold may function as a safe - haven asset when gold returns decrease to the lowest quantiles. The research results carry important management implications for investors, encouraging portfolio diversification and the use of information about the role of gold at different price levels to build market timing strategies.
Download
|