|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 35(2)
, Tháng 2/2024, Trang 37-52
|
|
Rủi ro địa chính trị và thị trường tài chính Việt Nam |
Geopolitical Risk and Financial Markets in Vietnam |
Ngo Thai Hung & Nguyen Thanh Hung & Le Thanh dang & Nguyen Thanh duc |
DOI: 10.24311/jabes/2024.35.2
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm ước lượng chỉ số lan tỏa về giá và khảo sát sự tương quan của rủi ro địa chính trị (Geopolitical Risk – GPR) đối với thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn từ 2018–2023 với dữ liệu theo tháng, đặc biệt trong các sự kiện chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, đại dịch COVID-19 và xung đột quân sự Nga – Ukraine. Để làm được điều này, nhóm tác giả vận dụng phương pháp chỉ số lan tỏa giá của Diebold và Yilmaz (2012) và mô hình Cross-Quantilogram của Linton và Wang (2007). Kết quả cho thấy tổng chỉ số lan tỏa đạt 31,4%, nghĩa là tồn tại sự kết dính chặt chẽ giữa các chỉ số được nghiên cứu. Hơn nữa, tác động của GPR lên thị trường tài chính bao gồm tích cực và tiêu cực trong ngắn hạn và yếu dần ở trung hạn. Các kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và chính sách.
Abstract
This study aims to analyze the price spillover effects and examine correlation between Geopolitical Risk (GPR) and financial markets in Vietnam during the period 2018–2023, covering the US – China trade war, the COVID-19 pandemic, and the Russia – Ukraine crisis. By doing so, the authors employ the spillover index proposed by Diebold and Yilmaz (2012) and the Cross-Quantilogram developed by Linton and Wang (2007). Empirical results illustrate that the price spillover effects between GPR and Vietnam financial markets have a high level of 31.4%, which implies that there is a significant connectedness between these time series. In addition, the impact of GPR on financial markets is both positive and negative in the short term as well as gradually weaker in the medium run. These results have crucial implications for investors, portfolio managers and policymakers.
Từ khóa
Rủi ro địa chính trị, thị trường tài chính, chỉ số lan tỏa, cross-quantilogram, Vietnam. Geopolitical risk; Financial markets; Spillover index; Cross-quantilogram; Vietnam.
|
Download
|
|
Bitcoin và thị trường chứng khoán Việt Nam. Bằng chứng thực nghiệm giai đoạn khủng hoảng COVID–19 và Nga-Ukraine
2023, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm mục tiêu ước lượng mối tương quan và chỉ số lan tỏa về giá giữa Bitcoin và thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn COVID–19 và xung đột Nga-Ukraine. Để thực hiện điều này, chúng tôi sử dụng mô hình DECO–GARCH đa biến và phương pháp chỉ số kết nối phát triển bởi Diebold và Yilmaz (2014). Kết quả cung cấp bằng chứng xác định tương quan chung của các thị trường nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê và thay đổi theo thời gian. Hơn nữa, chỉ số lan tỏa về giá giữa Bitcoin và thị trường tài chính Việt Nam có hiệu ứng cao đến 48%, nghĩa là tồn tại sự gắn kết giữa Bitcoin và thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả này là kênh thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư và hoạch định chính sách. <br><br>Abstract<br>
This study aims to explore the return spillover effects between Bitcoin and stock markets in Vietnam during the COVID-19 and Russia-Ukraine crises. By doing so, the authors employ the DECO-GARCH model and spillover index proposed by Diebold and Yilmaz (2014). Empirical analysis uncovers that there exists a time-varying equicorrelation between Bitcoin and stock market returns during the sample period. In addition, the price spillover effects between Bitcoin and Vietnam stock markets have a high level of 48%, which implies that there is a significant connectedness between these time series. These results have important implications for investors and market participants.
Download
Mối quan hệ phi tuyến giữa tạo thanh khoản và tỷ lệ an toàn vốn: Bằng chứng từ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích mối quan hệ phi tuyến hai chiều giữa tạo thanh khoản và tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam bằng cách sử dụng hồi quy ngưỡng dành cho dữ liệu bảng với mẫu gồm 24 NHTM trong giai đoạn 2007–2023. Kết quả ước lượng cho thấy tác động của tỷ lệ an toàn vốn đến tạo thanh khoản và ngược lại, ảnh hưởng của tạo thanh khoản đến tỷ lệ an toàn vốn đều mang tính phi tuyến, cho thấy ngưỡng tồn tại. Tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn ngưỡng làm giảm tạo thanh khoản, nhưng khi vượt qua ngưỡng lại làm tăng. Ở chiều ngược lại, tạo thanh khoản thấp hơn ngưỡng làm giảm tỷ lệ an toàn vốn nhưng cao hơn mức ngưỡng lại làm tăng. Những phát hiện này cho thấy chính sách quản lý Nhà nước cần có sự phối hợp giữa tạo thanh khoản và mức độ đầy đủ vốn để thúc đẩy sự phát triển vững mạnh của hệ thống ngân hàng.
<br><br>Abstract <br>
This study investigates the bidirectional nonlinear relationship between liquidity creation (LC) and the capital adequacy ratio (CAR) in Vietnamese commercial banks by employing panel threshold regression (PTR) with a sample of 24 banks from 2007 to 2023. The empirical results reveal a nonlinear impact of CAR on LC and vice versa, indicating the existence of threshold effects. Specifically, when the capital adequacy ratio falls below a certain threshold, liquidity creation decreases; however, once CAR exceeds the threshold, liquidity creation increasesn. Conversely, when liquidity creation falls below its threshold, the capital adequacy ratio decreases, whereas exceeding the liquidity creation threshold leads to an increase in CAR. These findings highlight the need for policymakers to coordinate liquidity creation and capital adequacy policies to foster a sound banking system.
Download
Phân tích tác động của sự kiện chiến tranh Nga – Ukraine đến thị trường chứng khoán ASEAN-6
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài báo sử dụng dữ liệu hàng ngày của các nước ASEAN-6 để phân tích tác động của sự kiện Nga xung đột với Ukraine ngày 24 tháng 2 năm 2022 đến thị trường chứng khoán của các quốc gia này. Phương pháp phân tích sự kiện với các khung cửa sổ sự kiện [-15; 15] được áp dụng với các kiểm định Patell, kiểm định Patell hiệu chỉnh, và kiểm định Boehmer. Kết quả kiểm định chung trên toàn khu vực cho thấy thị trường ASEAN có phản ứng khi có sự kiện chiến tranh Nga – Ukraine. Sự sụt giảm của thị trường ngay trong ngày sự kiện cho thấy thị trường chứng khoán phản ứng tiêu cực với sự kiện và sự phản ứng này còn kéo dài ít nhất đến 15 ngày sau sự kiện. Tuy nhiên, sự tác động của sự kiện này đến từng quốc gia không giống nhau. Malaysia, Singapore và Philippines là có phản ứng rõ rệt nhất với sự kiện này. Kết quả nghiên cứu của bài báo cũng có những hàm ý nhất định đối với nhà đầu tư, khi mà các xung đột quân sự có thể tác động đến thị trường tài chính thì nhà đầu tư cần hiểu rõ tác động của sự kiện này để đưa ra quyết định đầu tư hợp lý, hoặc dựa trên những kinh nghiệm này để lập kế hoạch dự phòng rủi ro cho những diễn biến trong tương lai. <br><br>
Abstract <br>
This article analyzes the impact of Russia's conflict with Ukraine on February 24, 2022, on the stock markets of the ASEAN-6 countries using daily data. The event analysis method with a window of [-15, 15] was applied, employing Patell's test (1976), adjusted Patell's test, and Boehmer's test. The overall test results across the region indicate that ASEAN markets reacted to the Russia - Ukraine war. The decline in the market on the event day signifies a negative reaction, which persisted for at least 15 days after the event. However, the impact of the event varied among countries, with Malaysia, Singapore, and the Philippines exhibiting the most pronounced reactions. The study's findings have implications for investors, suggesting that military conflicts can influence financial markets. Consequently, investors need to understand these impacts to make informed investment decisions and develop risk contingency plans for future developments.
Download
Trái phiếu xanh quốc tế và thị trường chứng khoán Việt Nam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Tại Việt Nam, với sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu đầu tư xanh và những nỗ lực cấp bách trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, nghiên cứu này đóng góp vào các tài liệu mới nổi về đầu tư xanh bằng cách khám phá mối liên hệ thời gian - tần suất giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2014–2024. Để đạt được các mục tiêu này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp tương quan đa chiều cục bộ bằng wavelet (WLMC), có thể xác định mối liên hệ giữa các chỉ số ở nhiều giai đoạn và tần suất khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ mạnh mẽ giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính tại Việt Nam, cả tích cực lẫn tiêu cực, phụ thuộc vào từng giai đoạn thời gian và tần suất. Cụ thể, mối liên hệ tiêu cực nổi bật trong các giai đoạn ngắn và trung hạn (2–64 ngày), nhưng khi xét đến dài hạn (128–256 ngày) và đặc biệt là rất dài hạn (trên 512 ngày), mối quan hệ tích cực giữa trái phiếu xanh và thị trường tài chính trở nên rõ rệt hơn. Những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà hoạch định chính sách quan tâm đến đầu tư xanh và giảm thiểu biến đổi khí hậu. <br><br>
Abstract <br>
In Vietnam, the rapid increase in demand for green investments and urgent efforts to mitigate climate change have prompted this study, which contributes to the emerging literature on green investments by exploring the time-frequency relationship between green bonds and the financial market in Vietnam from 2014 to 2024. To achieve this, the authors employ the Wavelet Local Multiple Correlation (WLMC) method, which allows for identifying relationships between indices across various time scales and frequencies. The results reveal a strong nexus between green bonds and the financial market in Vietnam, exhibiting both positive and negative correlations depending on the specific time and frequency. Notably, the negative relationship is significant in the short- and medium-term periods (2–64 days), while the positive relationship between green bonds and the financial market becomes more pronounced in the long-term (128–256 days) and especially in the very long-term (over 512 days). These findings are significant for investors and policymakers focusing on green investments and climate change mitigation.
Download
Phát triển tài chính và chuyển đổi năng lượng tái tạo: Vai trò điều tiết của công nghệ môi trường
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài nghiên cứu xem xét cách công nghệ liên quan đến môi trường (Environment-Related Technologies ‒ ERT) điều tiết sự tác động của phát triển tài chính (Financial Development ‒ FD) lên tiêu thụ năng lượng tái tạo (Renewable Energy Consumption ‒ REC), từ đó cung cấp góc nhìn toàn diện về sự tương tác giữa các yếu tố trong quá trình chuyển đổi năng lượng của các quốc gia trên thế giới. Sử dụng bộ dữ liệu từ 165 quốc gia trong giai đoạn 1990‒2021, nhóm tác giả áp dụng các mô hình hệ thống (GMM) hai bước và hồi quy ngưỡng bảng động để phân tích các tương tác phức tạp giữa FD, ERT, và REC. Kết quả của nhóm cho thấy rằng hiệu ứng điều tiết của ERT lên mối quan hệ giữa FD và REC này được thể hiện trong tất cả 9 biến đại diện cho FD. Hơn nữa, bài nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối liên hệ phi tuyến tính giữa FD và REC. Cụ thể hơn, tại ngưỡng ERT ở giá trị 21,04%, có sự thay đổi trong tác động của FD lên REC. Tuy nhiên, ngưỡng điều tiết này của ERT có sự khác biệt giữa các nền kinh tế khác nhau. Những kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của các chính sách phát triển công nghệ hướng đến môi trường trong việc điều tiết các tiến bộ của ngành tài chính đến chuyển đổi năng lượng tái tạo cho mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, với từng mức ngưỡng khác nhau của ERT, bài nghiên cứu cũng đề xuất các hàm ý chính sách phù hợp với từng nền kinh tế, bao gồm các chính sách ưu đãi cho các dự án công nghệ môi trường về thuế và tín dụng, phát triển công cụ tài chính môi trường như trái phiếu xanh và các chính sách giảm thiểu bất cân xứng thông tin nhằm giảm các vấn đề về gian lận nhãn dán xanh (Greenwashing). <br><br> Abstract <br>
The study examines how environment-related technologies (ERT) moderate the impact of financial development (FD) on renewable energy consumption (REC), offering a comprehensive perspective on the interplay of these factors in the energy transition of countries worldwide. Using a dataset spanning 165 countries from 1990 to 2021, we employ two-step System Generalized Method of Moments (GMM) and dynamic panel threshold regression models to analyze the complex interactions between FD, ERT, and REC. Our findings reveal that ERT’s moderating effect on the relationship between FD and REC is evident across all nine proxies for FD. Furthermore, the study provides empirical evidence of a nonlinear relationship between FD and REC. Specifically, when ERT reaches the threshold value of 21.04%, there is a shift in FD's impact on REC. However, this threshold varies across different economies. These results underscore the critical role of environmentally oriented technological policies in regulating financial sector advancements to promote renewable energy transitions for sustainable development. Additionally, the study offers policy implications tailored to various economies based on different ERT thresholds. These include tax and credit incentives for environmental technology projects, the development of green financial instruments such as green bonds, and measures to reduce information asymmetry to address greenwashing issues.
Download
|