Tác động của FDI lên môi trường trong điều kiện tồn tại Đường cong Môi trường Kuznets (EKC)
Vo Thi Thuy Kieu & Le Thong Tien
DOI:
Email: lethongtien1609@gmail.com
Đơn vị công tác: uy ban Kiem tra Quan uy Quan Phu Nhuan
Ngày nhận bài: 03/06/2019
Ngày nhận bài sửa: 26/05/2020
Ngày duyệt đăng: 01/08/2019
Ngày xuất bản: 03/06/2019
Lượt xem: 14
Downloads: 1
Các định dạng trích dẫn
Tóm tắt
Bằng phương pháp ước lượng Difference-GMM (hay D-GMM) trên mô hình dạng bảng động, bài nghiên cứu kiểm tra tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lên môi trường trong điều kiện tồn tại Đường cong Môi trường Kuznets (EKC), có sự kiểm soát các yếu tố như độ mở kinh tế, tỷ trọng sản xuất công nghiệp, đô thị hóa và thể chế. Bộ dữ liệu của 50 quốc gia mới nổi và đang phát triển, từ 2011 - 2017, được sử dụng. Bằng chứng được tìm thấy ủng hộ nhiều hơn giả thuyết nơi ẩn giấu ô nhiễm (Pollution Haven), FDI có tác động làm cho suy thoái môi trường trầm trọng hơn, và chưa có bằng chứng thống kê về tác động cải thiện chất lượng môi trường của FDI, được gọi là Hiệu ứng lan tỏa (Halo Effect). Ảnh hưởng của GDP lên ô nhiễm môi trường diễn ra có sự chuyển đổi, hiệu ứng hình chữ U ngược được tìm thấy, ghi nhận sự tồn tại của EKC.
Từ khóa
Đường cong Môi trường Kuznets, Nơi ẩn giấu ô nhiễm, Hiệu ứng lan tỏa, Mô hình D-GMM
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm trả lời câu hỏi liệu các nước ASEAN theo đuổi chính sách tăng trưởng kinh tế có gây ra suy thoái môi trường hay ngược lại, cải thiện môi trường theo giả thuyết đường cong môi trường Kuznets (EKC). Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng của 10 nước ASEAN trong giai đoạn 1990–2017 để phân tích định lượng mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường với tăng trưởng kinh tế và các yếu tố khác như: FDI, năng lượng, dân số, và đô thị hoá. Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy ở toàn khối ASEAN-10, tăng trường kinh tế gây ra ô nhiễm môi trường. Kết quả nghiên cứu ở từng nước cho thấy các nước như: Philippines, Việt Nam, Lào, Myanmar, và Cambodia đang ở nửa trái đường cong EKC, nghĩa là tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến suy thoái môi trường; các nước ASEAN còn lại đã ở nửa phải đường cong, nghĩa là tăng trưởng kinh tế giúp cải thiện môi trường.
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nhu cầu phát triển du lịch bền vững dẫn đến sự quan tâm về hành vi trách nhiệm với môi trường (Environmentally Responsible Behaviour – ERB) của du khách cũng như việc thực hiện trách nhiệm xã hội của điểm đến (Destination Social Responsibility – DSR). Nghiên cứu tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng nhận thức của du khách về trách nhiệm xã hội của điểm đến lên hành vi trách nhiệm với môi trường của du khách thông qua hình ảnh nhận thức và sự nhận dạng du khách với điểm đến. Nghiên cứu tiến hành khảo sát 393 du khách du lịch tại TP. Đà Nẵng. Mô hình nghiên cứu được kiểm định thông qua phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính. Kết quả chỉ ra rằng, có mối quan hệ trực tiếp từ nhận thức trách nhiệm xã hội của điểm đến lên hình ảnh nhận thức và sự nhận dạng điểm đến, đồng thời, hành vi trách nhiệm với môi trường của du khách bị tác động bởi sự nhận dạng với điểm đến và hình ảnh nhận thức. Ngoài ra, kiểm định mối quan hệ trung gian chỉ ra rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của điểm đến và hành vi trách nhiệm với môi trường bị ảnh hưởng gián tiếp từ hình ảnh nhận thức và sự nhận dạng điểm đến.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Trong bối cảnh truyền thông xanh ngày càng phổ biến trong hoạt động marketing của các doanh nghiệp OCOP, hiện tượng "tẩy xanh" (greenwashing) đặt ra thách thức lớn đối với sự tin tưởng của người tiêu dùng. Nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ giữa nhận thức tẩy xanh, bản sắc môi trường và ý định tẩy chay thương hiệu, đồng thời kiểm định vai trò điều tiết của bản sắc môi trường. Dựa trên cơ sở lý thuyết, nhóm tác giả xây dựng mô hình lý thuyết và tiến hành khảo sát 191 người tiêu dùng tại Việt Nam. Dữ liệu được phân tích bằng phương pháp PLS-SEM cho thấy: (1) bản sắc môi trường tác động tích cực đến nhận thức tẩy xanh; (2) nhận thức tẩy xanh có ảnh hưởng đáng kể đến ý định tẩy chay; và (3) bản sắc môi trường điều tiết mối quan hệ giữa nhận thức tẩy xanh và ý định tẩy chay, theo hướng làm gia tăng mức độ phản ứng tiêu dùng. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về cơ chế tâm lý xã hội trong phản ứng tiêu dùng trước hành vi truyền thông xanh sai lệch. Hàm ý thực tiễn nhấn mạnh việc doanh nghiệp cần minh bạch hóa truyền thông, xây dựng bản sắc môi trường đáng tin cậy và tránh phóng đại cam kết "xanh". Đồng thời, cơ quan quản lý cần hoàn thiện cơ chế giám sát và chứng nhận để bảo vệ thị trường truyền thông bền vững cho chương trình OCOP. <br><br> Abstract <br>
In the context of the growing prevalence of green communication in the marketing strategies of One Commune One Product (OCOP) enterprises, the phenomenon of greenwashing poses a significant challenge to consumer trust. This study investigates the relationships among Greenwashing Perception (GP), Environmental Self-identity (ES), and Boycott Intention (BI), while examining the moderating role of ES. Based on theoretical foundations, the authors developed a research model and conducted a survey of 191 consumers in Vietnam. Data analyzed using the PLS-SEM method reveal that: (1) ES positively influences GP; (2) GP significantly affects BI; and (3) ES moderates the GP–BI relationship by amplifying the level of consumer reaction. These findings provide empirical evidence of the socio-psychological mechanisms underlying consumer responses to misleading green communication. Practical implications emphasize the need for enterprises to ensure transparency in communication, build a credible environmental identity, and avoid overstating “green” commitments. Meanwhile, policymakers should strengthen monitoring and certification systems to safeguard the sustainable communication environment of the OCOP program.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo và ba trụ cột của kết quả hoạt động bền vững (kinh tế, môi trường và xã hội) trong bối cảnh các doanh nghiệp (DN) công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM) để đánh giá tác động của đổi mới quy trình (ĐMQT) và đổi mới sản phẩm (ĐMSP) đến kết quả hoạt động bền vững, dựa trên dữ liệu khảo sát từ 254 DN ICT. Kết quả nghiên cứu cho thấy ĐMQT có tác động mạnh mẽ đến cả ba khía cạnh của kết quả hoạt động bền vững. Trong khi đó ĐMSP có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh tế và môi trường nhưng tác động lên kết quả xã hội lại không có ý nghĩa thống kê. Những phát hiện này đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm từ một thị trường mới nổi như Việt Nam, đồng thời khuyến nghị các DN trong lĩnh vực ICT nên chú trọng vào ĐMQT cũng như cân nhắc lại chiến lược ĐMSP để mang lại kết quả bền vững toàn diện. <br><br>Abstract <br>
This article aims to explore the relationship between innovation and the three pillars of sustainability performance (economic, environmental, and social) in Vietnamese information and communication technology (ICT) enterprises. The study used the partial least squares structure equation model (PLS- SEM) to assess the impact of process innovation (PCI) and product innovation (PDI) on sustainability performance, based on survey data from 254 ICT firms. The results show that PCI has a substantial impact on all aspects of sustainability performance. Meanwhile, PDI affects economic and environmental performance, but the effect on social performance is not statistically significant. These findings contribute to empirical evidence from an emerging market such as Vietnam, and recommend that ICT enterprises should focus on process as well as reconsider their product innovation strategy to bring comprehensively sustainable efficiency.
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá tác động của bất ổn năng lượng tới ô nhiễm không khí trong ngắn hạn và dài hạn. Sử dụng chỉ số bất ổn năng lượng (EUI) được phát triển bởi Dang và cộng sự (2023) để đánh giá chuyên biệt những bất ổn xuất phát từ thị trường năng lượng, nghiên cứu làm rõ tác động không đồng nhất theo thời gian của EUI tới phát thải CO2 . Sử dụng dữ liệu bảng của 27 quốc gia trong giai đoạn 2000 – 2023, kết quả định lượng cho thấy bất ổn năng lượng làm gia tăng phát thải CO2 trong ngắn hạn, nhưng làm giảm trong dài hạn. Điều này có thể bắt nguồn từ sự thay đổi trong hành vi sử dụng năng lượng của dân cư, doanh nghiệp, hoặc từ hệ quả suy giảm tiêu dùng và đầu tư do lo ngại rủi ro năng lượng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị chính sách đối với ổn định thị trường năng lượng và cơ cấu năng lượng quốc gia. <br><br>Abstract <br>
This study evaluates the impact of energy-related uncertainty on air pollution in both the short and the long-run. Utilizing the newly developed energy-related uncertainty index (EUI) of Dang và cộng sự (2023), which specializes in capturing uncertainties arising from the energy market, this study explores the asymmetric impacts of EUI on CO2 emission in short and long-run. In particular, our empirical analysis with a panel dataset spanning 27 nations from 2000 to 2023 reveals that energy-related uncertainty exacerbates air pollution in the short-run but mitigates CO₂ emissions in the long-run. This pattern may arise from shifts in energy consumption behaviors among households and firms, or representing an unintended consequence of reduced consumption and investment stemming from concerns over risks in the energy market. Building on these insights, the authors propose several policy recommendations aimed at stabilizing the energy market and enhancing the national energy structure.