|
|
| Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
|
Năm thứ. 36(9)
, Tháng 9/2025, Trang *-*
|
|
| Tác động của bất ổn năng lượng tới ô nhiễm không khí: Bằng chứng quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam |
| IMPACTS OF ENERGY RELATED UNCERTAINTY ON AIR POLLUTION: INTERNATIONAL EVIDENCE AND IMPLICATIONS FOR VIETNAM |
| Le Hai Trung |
DOI: 10.24311/jabes/2025.36.9.02
Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá tác động của bất ổn năng lượng tới ô nhiễm không khí trong ngắn hạn và dài hạn. Sử dụng chỉ số bất ổn năng lượng (EUI) được phát triển bởi Dang và cộng sự (2023) để đánh giá chuyên biệt những bất ổn xuất phát từ thị trường năng lượng, nghiên cứu làm rõ tác động không đồng nhất theo thời gian của EUI tới phát thải CO2 . Sử dụng dữ liệu bảng của 27 quốc gia trong giai đoạn 2000 – 2023, kết quả định lượng cho thấy bất ổn năng lượng làm gia tăng phát thải CO2 trong ngắn hạn, nhưng làm giảm trong dài hạn. Điều này có thể bắt nguồn từ sự thay đổi trong hành vi sử dụng năng lượng của dân cư, doanh nghiệp, hoặc từ hệ quả suy giảm tiêu dùng và đầu tư do lo ngại rủi ro năng lượng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị chính sách đối với ổn định thị trường năng lượng và cơ cấu năng lượng quốc gia.
Abstract
This study evaluates the impact of energy-related uncertainty on air pollution in both the short and the long-run. Utilizing the newly developed energy-related uncertainty index (EUI) of Dang và cộng sự (2023), which specializes in capturing uncertainties arising from the energy market, this study explores the asymmetric impacts of EUI on CO2 emission in short and long-run. In particular, our empirical analysis with a panel dataset spanning 27 nations from 2000 to 2023 reveals that energy-related uncertainty exacerbates air pollution in the short-run but mitigates CO₂ emissions in the long-run. This pattern may arise from shifts in energy consumption behaviors among households and firms, or representing an unintended consequence of reduced consumption and investment stemming from concerns over risks in the energy market. Building on these insights, the authors propose several policy recommendations aimed at stabilizing the energy market and enhancing the national energy structure.
Từ khóa
Ô nhiễm môi trường; Bất ổn năng lượng; Phát thải CO2 Air Pollution; Energy-related Uncertainty; CO2 emissions
|
|
|
|
Ảnh hưởng của tác nhân rủi ro chuyển đổi đến rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Rủi ro biến đổi khí hậu (BĐKH) đã được xem là một trong những rủi ro trọng yếu trong hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của rủi ro chuyển đổi, đo lường bằng tỷ lệ cho vay các lĩnh vực liên quan đến chính sách khí hậu (CPRS) trên tổng dư nợ cho vay, đến rủi ro tín dụng (RRTD) của ngân hàng thương mại (NHTM). Dữ liệu của 23 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2015-2023 được sử dụng cho phân tích. Phương pháp hồi qui dữ liệu bảng mô-men tổng quát dạng sai phân (Difference Generalized Method of Moments – DGMM) được sử dụng cho ước lượng. Kết quả nghiên cứu khẳng định rủi ro chuyển đổi là nguyên nhân của RRTD. Do vậy, các NHTM cần đưa các vấn đề của rủi ro chuyển đổi nói riêng và rủi ro BĐKH nói chung vào qui trình quản trị RRTD, đồng thời xây dựng hệ thống dữ liệu cho vay chi tiết theo ngành và tiểu ngành thuộc CPRS để theo dõi và đánh giá rủi ro này. <br><br>Abstract<br>
Climate change risk has been considered one of the major risks in banking operations. The study analyzes the impact of climate transition risk, measured by the ratio of lending to climate policy relevant sectors (CPRS) to total loans, on credit risk of commercial banks. The Difference Generalized Method of Moments (DGMM) is employed to analyze data of 23 Vietnamese commercial banks in the period between 2015 and 2023. The results indicate that exposure to climate transition risk is positively associated with credit risk across banks. Therefore, banks need to incorporate the issues of transition risk as well as climate change risk into the credit risk management process, and build high granular lending data to monitor and assess climate risk.
Download
Ảnh hưởng của yếu tố địa lý đến tăng trưởng kinh tế các tỉnh thành Việt Nam
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích tác động của các yếu tố địa lý đến tăng trưởng kinh tế các tỉnh thành Việt Nam. Phương pháp hồi quy tác động cố định (FEM) và phương pháp moment tổng quát (GMM) được sử dụng với dữ liệu bảng của 63 tỉnh thành Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố địa lý có ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam. Cụ thể, yếu tố sông ngòi và nhiệt độ trung bình có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam. Ngược lại, sự biến động của nhiệt độ, sự biến động của lượng mưa, giá trị trung bình của lượng mưa, khoảng cách đến cảng biển gần nhất có tác động tiêu cực đến thu nhập bình quân đầu người. Từ kết quả nghiên cứu, một số hàm ý chính sách được đề xuất nhằm phân bổ nguồn lực đầu tư hợp lý từ đó có thể tận dụng được các yếu tố địa lợi vào phát triển kinh tế vùng một cách hiệu quả.
Download
Tác động của COVID-19 đến giá cổ phiếu và hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp tác động ngẫu nhiên để phân tích mối quan hệ của tác động đại dịch COVID-19 đến giá cổ phiếu, lợi nhuận và hoạt động các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam từ mẫu dữ liệu được thu thập từ tháng 3/2018 – 3/2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy đại dịch COVID-19 có tác động tích cực đến giá cổ phiếu, lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của các NHTM. Bên cạnh đó, một phát hiện lý thú là yếu tố phát triển công nghệ tại các NHTM không giúp cho họ có hiệu quả hoạt động tốt hơn trong đại dịch COVID-19 nhưng có tác động tích cực đến lợi nhuận của NHTM trong thời kỳ này. <br><br> <strong> Abstract </strong> <br>
The study uses the random effects model to analyze the relationship between the COVID-19 pandemic's impact on stock prices, profits and operations of Vietnamese commercial banks from a sample of data collected from March 2018 – March 2022. The results show that the COVID-19 pandemic has a positive impact on stock prices, profits and performance of banks. Besides, an interesting finding is that technology development at banks does not help them be more efficient during the COVID-19 pandemic but has a positive impact on bank profits during this period.
Download
Vai trò của chuyển đổi số đối với tăng trưởng kinh tế vùng Đông Nam Bộ
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu sử dụng kết hợp khung lý thuyết mô hình tăng trưởng cổ điển và hiện đại nhằm đánh giá tác động của chuyển đổi số đến tăng trưởng kinh tế Vùng Đông Nam Bộ. Sử dụng dữ liệu thứ cấp giai đoạn từ 2005 - 2021 của 6 tỉnh, thành phố thuộc Vùng Đông Nam Bộ và phương pháp hồi quy Pooled Mean Group (PMG), kết quả nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng về vai trò của chuyển đổi số, cụ thể là chỉ số phát triển công nghệ thông tin (ICT Index) làm tăng đáng kể GRDP của Vùng. Bên cạnh đó, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn con người (được đo lường bằng tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng trở lên) cũng được xác nhận trong mô hình tăng trưởng. Một phát hiện thú vị của nghiên cứu là tác động của thể chế được đánh giá ở khía cạnh chính sách phát triển kinh tế tư nhân hay dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp không giúp làm tăng GRDP của Vùng như kỳ vọng. <br><br> Abstract <br>
The study employs a combination of classical and modern economic growth theories to assess the impact of digital transformation on growth in the Southeast region. Using secondary data over the 2005–2021 period of 6 provinces and cities in the Southeast Region and pooled mean group (PMG) regression method, the research results provide evidence of a statistically positive effect of digital transformation (measured by the ICT index) on the growth of the Region. Besides, the roles of foreign direct investment and human capital have also been confirmed in the growth model. An interesting finding of the study is that institutions measured in terms of either private economic development policy or business support services have no significant impact on growth as expected.
Download
Tác động của giá dầu lên lượng khí thải CO2 tại Việt Nam: Liệu có tồn tại hiệu ứng bất đối xứng?
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài nghiên cứu này xem xét sự hiện diện tác động bất đối xứng của giá dầu lên lượng khí thải CO2 tại Việt Nam. Bằng cách sử dụng phương pháp Tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến (NARDL) với dữ liệu theo tần suất năm của giá dầu thô thực, mức tiêu thụ năng lượng, thu nhập bình quân đầu người thực tế và lượng khí thải CO2 trong giai đoạn 1984-2021. Những kết quả quan trọng chính cho thấy: Thứ nhất, giá dầu có ảnh hưởng ngược chiều với lượng khí thải CO2 trong dài hạn, cụ thể là giá dầu tăng góp phần làm giảm lượng khí thải CO2 và giá dầu giảm lại làm gia tăng lượng khí thải CO2, vốn gây ô nhiễm môi trường. Thứ hai, giá dầu tăng có mức ảnh hưởng mạnh hơn so với giá dầu giảm lên lượng khí thải CO2, điều này hàm ý tồn tại hiệu ứng bất đối xứng của tác động giá dầu lên lượng khí thải CO2 trong dài hạn. Thứ ba, trong ngắn hạn, tác động bất đối xứng của giá dầu lên lượng khí thải CO2 là ngược chiều so với dài hạn. Những phát hiện này được xem như một nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong việc sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm thiểu lượng khí thải CO2 nhằm cải thiện chất lượng môi trường. <br><br> <b>Abstract</b> <br> This study investigates the asymmetric effects of oil prices on CO2 emissions in Vietnam by using the Non-linear Autoregressive Distributed Lag (NARDL) approach with annual data on real crude oil prices, energy consumption, real per capita income and CO2 emissions in the period 1984–2021. The important results are in threefold. First, oil prices have a significant negative impact on CO2 emissions in the long term, specifically, an increase in oil prices contributes to reducing CO2 emissions and a decrease in oil prices increases CO2 emissions, which causes environmental pollution. Second, an increase in oil prices has a stronger influence than a decrease in oil prices on CO2 emissions, which implies the existence of an asymmetric effect of the impact of oil prices on CO2 emissions in the long term. Third, in the short term, the asymmetric impact of oil prices on CO2 emissions has the opposite trend compared to the long term. These findings are considered a meaningful reference source for using energy efficiently and minimizing CO2 emissions to improve environmental quality.
Download
|