Tác động nhân quả của trợ cấp nhiên liệu trong ngành khai thác cá ngừ đại dương Việt Nam
Causal Impact of Fuel Subsidies in Vietnam’s Oceanic Tuna Fishery
Duy Ngoc Nguyen
DOI:
Email: nguyenngocduy@ntu.edu.vn
Đơn vị công tác: Nha Trang University
Ngày nhận bài: 04/11/2025
Ngày nhận bài sửa: 23/12/2025
Ngày duyệt đăng: 01/10/2025
Ngày xuất bản: 04/11/2025
Lượt xem: 1
Downloads: 0
Các định dạng trích dẫn
Tóm tắt
Nghiên cứu này xem xét tác động của trợ cấp nhiên liệu đối với hiệu quả kỹ thuật và kinh tế của đội tàu câu cá ngừ đại dương tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 122 tàu khai thác trong mùa năm 2024 và áp dụng phương pháp ước lượng bền vững kép để xác định tác động nhân quả của hai yếu tố can thiệp, gồm giá nhiên liệu ròng và tỷ lệ trợ cấp. Kết quả cho thấy khi giá nhiên liệu ròng cao hơn, hiệu quả nhiên liệu và tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, lợi ích này thấp hơn khi giá nhiên liệu ròng quá cao. Ngược lại, cường độ trợ cấp lớn hơn gắn liền với hiệu quả nhiên liệu và tỷ suất lợi nhuận thấp hơn, cho thấy chính sách hỗ trợ rộng rãi làm suy yếu động lực tiết kiệm và giảm hiệu quả kinh tế. Bằng chứng này cho thấy cần cải cách chính sách theo hướng trợ cấp có mục tiêu gắn liền với hiệu quả hoạt động, phù hợp với Hiệp định trợ cấp thủy sản của WTO và thúc đẩy phát triển bền vững nghề cá xa bờ.
Abstract:
This study examines the causal impact of fuel subsidies on the technical and economic efficiency of Vietnam’s oceanic tuna longline fleet. Using data from 122 vessels during the 2024 fishing season, the research employs a double-robust estimation approach to identify the causal effects of two intervention factors: the net fuel price and the subsidy intensity. The findings reveal that higher net fuel prices are associated with greater fuel efficiency and profitability; however, these benefits diminish when the net fuel price becomes excessively high. Conversely, higher subsidy intensity is linked to lower fuel efficiency and profitability, suggesting that broad-based support policies weaken conservation incentives and undermine economic performance. The evidence underscores the need for policy reform toward targeted subsidies tied to operational efficiency, consistent with the WTO Fisheries Subsidies Agreement and the objective of promoting sustainable offshore fisheries development.
Từ khóa
Cá ngừ đại dương; Trợ cấp nhiên liệu; Tác động nhân quả; IPWRA; AIPW; Việt Nam Oceanic tuna; Fuel subsidy; Causal impact; IPWRA; AIPW; Vietnam
2025, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này so sánh ba kịch bản về chiến lược quản lý khai thác thủy sản tại việt nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu. Chiến lược 1: tiếp tục nỗ lực đánh bắt thủy sản như hiện tại. Chiến lược 2: tạm dừng đánh bắt. Chiến lược 3: sản lượng đánh bắt tối ưu hiệu quả kinh tế (MEY). Mô hình kinh tế sinh học được sử dụng với giả định sản lượng thủy sản phụ thuộc nhiệt độ bề mặt nước biển tăng mỗi năm 0,010C tính từ năm cơ sở 2013 có nhiệt độ 26,350C. Số liệu giai đoạn 2013-2020 thu thập từ Tổng cục Thống kê và World Bank Data. Kết quả cho thấy Chiến lược 1 sẽ làm sụp đổ ngành đánh bắt thủy sản. Chiến lược 2 duy trì trữ lượng nhưng không có lợi nhuận. Chiến lược 3 là khả thi nhưng chỉ duy trì được trữ lượng bền vững và lợi nhuận ở mức thấp. Để cải thiện chiến lược 3, cần kết hợp chiến lược MEY với hoạt động giảm thiểu biến đổi khí hậu (BĐKH). Hiện tại có thể xem xét chiến lược thay thế là “đóng cửa” biển một phần để bảo tồn, đồng thời khai thác phần còn lại theo chiến lược MEY kết hợp với hệ thống hạn ngạch đánh bắt có thể chuyển nhượng, và tổ chức quản lý thích ứng với BĐKH. <br><br>Abstract <br>
This paper investigates the optimal fishery management in Vietnam under climate change by comparing three scenarios. Scenario 1 maintains the current harvesting effort. Scenario 2 closes the sea for fishery biomass conservation. Scenario 3 pursues the maximum economic yield (MEY). The bioeconomic model is utilized, with the fishery yield function depending on the sea surface temperature affected by global warming rising at an annual rate of 0.010C, starting from 26.350C in the base year 2013. The secondary data for the period 2013–2020 was collected from the General Statistics Office and the World Bank Database for the model regression. The results show that if Vietnam continues the current harvesting effort (Scenario 1), the fishing intensity combined with global warming may lead to the collapse of the fishery in the long run. In contrast, if Vietnam bans fishing (Scenario 2), the stock may recover, but the industry makes no profit. The most feasible strategy is MEY (Scenario 3), where both the stock and profit are positive even under the impact of global warming. However, the unexpected consequence of MEY is the reduction of fish production and profit; thus, the implementation of such a policy requires integrating climate change mitigation policies. At present, an intermediate strategy such as establishing various conservation zones for fish recovery, jointly with ongoing harvesting in the other areas under the transferable quota system and climate change adaptation institution, can be a feasible solution to rebuild the fishery ecosystem and maintain economic value.
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài báo này trình bày nền tảng lý thuyết về hiệu quả kinh tế, môi trường và mối quan hệ giữa hai chỉ số này theo cách tiếp cận nguyên lý cân bằng dưỡng chất. Phân tích bao dữ liệu được sử dụng để tính toán và phân tích các chỉ số này cho các trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh tại Phú Yên trong năm 2014. Kết quả nghiên cứu 59 hộ nuôi thâm canh (24% tổng thể) tôm thẻ chân trắng ở Phú Yên cho thấy, bình quân, hộ nuôi có hiệu quả kinh tế là 69% và môi trường là 78%. Cải thiện hiệu quả kỹ thuật có thể đồng thời cải thiện cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của hộ nuôi với mức bình quân là 10%. Sự khác biệt về tỉ lệ giá thị trường và tỉ lệ hàm lượng dưỡng chất của thức ăn nuôi tôm và con giống đã dẫn đến sự đánh đổi giữa hiệu quả kinh tế và môi trường trong nghề nuôi tôm với chi phí ẩn bình quân của 01 kg ni-tơ dưỡng chất gây ô nhiễm là 1,858 triệu đồng. Để hướng đến nuôi tôm thẻ chân trắng bền vững, các chính sách về: (i) huấn luyện kỹ thuật cho nghề nuôi tôm; (ii) trợ cấp cho nghiên cứu và sản xuất giống; và (iii) đánh thuế xả thải hoặc xây dựng tiêu chuẩn xử lý nước thải, chất thải nuôi tôm trước khi xả thải ra môi trường nên được quan tâm. <br> <br> <strong> Abstract </strong>
This paper presents the theoretical background on economic and environmental efficiencies as well as the relationship between these two indicators based on the nutrient balance principle. The data envelopment analysis is adopted to calculate these indicators for intensive white-leg shrimp farming households in Phu Yen for the year of 2014. The results from 59 intensive shrimp household farms (24% of the population) in Phu Yen show that, on average, farming economic and environmental efficiencies are 69% and 78%, respectively. Improving technical efficiency can simultaneously improve both the farm’s economic and environmental efficiencies by an average of 10%. Differences in the ratios between market prices and the nutrient contents of shrimp feed and fingerlings have led to a trade-off between economic and environmental efficiencies with an average shadow cost of 1,858 million VND for 01 kg of nitrogen pollutant nutrient. Towards sustainable white-leg shrimp farming, policies on: (1) Technical training for this shrimp aquaculture; (2) subsidies for seeding research and production; and (3) pollution discharge tax or standards for treating shrimp farming wastes before discharging into the environment should be considered.
2021, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam và chiếm 3,07% GDP toàn quốc, tuy nhiên, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thời tiết và thiên tai. Sử dụng dữ liệu bảng của 28 tỉnh ven biển từ năm 2002-2018, bài báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) bao gồm thiên tai và thời tiết lên sản lượng đánh bắt cá của Việt Nam. Bài báo chỉ ra lượng mưa và áp thấp nhiệt đới không có ảnh hưởng rõ rệt lên sản lượng đánh bắt cá. Ngoài ra, bài báo tìm ra kết quả khá thú vị là bão và tốc độ gió trung bình làm tăng sản lượng đánh bắt cá khi các yếu tố khác không đổi. Từ nghiên cứu về tác động của BĐKH lên sản lượng đánh bắt cá, bài báo đưa ra một số hàm ý chính sách trong việc quản lý bền vững ngành cá trước sự biển đổi của thiên tai và thời tiết.
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Thuế bất động sản (BĐS) là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước (NSNN), là công cụ góp phần quản lý và điều hành thị trường BĐS. Ngoài ra, so với các sắc thuế khác thì thuế BĐS là loại thuế đảm bảo được tính công bằng cao, khả năng trốn thuế thấp hơn do tính không chuyển dịch của đối tượng chịu thuế, sắc thuế này đã và đang được sử dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, đối với VN luật thuế BĐS hiện nay còn nhiều bất cập. Trong bối cảnh thực hiện cam kết quốc tế nói chung, cam kết thuế nói riêng, thuế BĐS cần thiết phải thay đổi hợp lý hơn theo chiều hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, tái cấu trúc cơ cấu thu thuế… Do đó việc nghiên cứu, tham khảo và học hỏi kinh nghiệm thu thuế đối với BĐS ở một số các quốc gia và thực tiễn chính sách thuế BĐS hiện hành tại VN là điều cần thiết, từ đó đưa ra những gợi ý sửa đổi chính sách thuế BĐS VN từng bước tương đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm mục đích giải thích ý định liên kết giữa hộ nuôi với các tác nhân khác tham gia chuỗi cung cá hồng Mỹ tại Việt Nam. Nghiên cứu mở rộng lý thuyết hành vi dự định (TPB) bằng việc tích hợp 5 biến sự tin tưởng, văn hóa liên kết, chính sách Chính phủ, kiến thức liên kết, sự bất định của liên kết để giải thích cho các biến của mô hình TPB gốc là thái độ, chuẩn mực xã hội, kiểm soát hành vi và ý định liên kết chuỗi. Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình phương trình cấu trúc dựa trên kỹ thuật phân tích bình phương tối thiểu bán phần (PLS-SEM) để kiểm tra độ tin cậy, độ giá trị các thang đo dựa trên mẫu khảo sát 170 hộ nuôi cá hồng Mỹ tại 5 tỉnh Kiên Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Khánh Hòa, Phú Yên và Nghệ An. Kết quả cho thấy các giả thuyết đề xuất đều được ủng hộ bởi dữ liệu. Nghiên cứu định lượng giải thích cho động cơ liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm sử dụng lý thuyết TPB là khá hiếm hiện nay. Tính hiệu lực của lý thuyết này được khẳng định trong bối cảnh chuỗi cá hồng Mỹ, một đối tượng nuôi mới tại Việt Nam, là quan trọng để tạo nên những đóng góp ý nghĩa cả về học thuật lẫn các hàm ý chính sách.