|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 31(5)
, Tháng 5/2020, Trang 18-38
|
|
Bảo tồn di tích lịch sử và giá nhà phố: Nghiên cứu điển hình tại TP. Hồ Chí Minh |
|
Nguyễn Thị Hồng Thu & Nguyễn Lưu Bảo Đoan & Nguyễn Anh Tuấn |
DOI:
Tóm tắt
Nghiên cứu đóng góp cho cuộc tranh luận về vai trò và tác động của các công trình được xếp hạng là di tích văn hóa - lịch sử tại Việt Nam. Mặc dù các học giả tham gia tranh luận nhận định tích cực về những giá trị của bảo tồn các công trình có ý nghĩa văn hóa, lịch sử, kiến trúc tại TP. Hồ Chí Minh, vẫn chưa có nhiều bằng chứng thực nghiệm bảo vệ quan điểm này. Nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát giá nhà và tìm hiểu mối quan hệ giữa giá nhà phố và sự hiện diện của các công trình đã được xếp hạng di tích văn hóa tại TP. Hồ Chí Minh bằng cách sử dụng mô hình định giá Hedonic cho 260 nhà phố tại TP. Hồ Chí Minh. Kết quả của nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây trên thế giới cho thấy khoảng cách từ nhà đến di tích gần nhất càng tăng thì giá nhà càng giảm. Kết quả nghiên cứu gợi ý cần xem xét chính sách thuế trong giao dịch bất động sản và khuyến khích cộng đồng chủ động tham gia hoạt động bảo tồn nhằm đạt được hiệu quả cao.
Từ khóa
bảo tồn lịch sử, công trình lịch sử được xếp hạng, giá nhà, mô hình định giá Hedonic
|
Download
|
|
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng vị trí công việc tại doanh nghiệp thời kỳ chuyển đổi số
2021, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Thực tế cho thấy, hiện nay, sinh viên tốt nghiệp tại nhiều trường đại học không đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng, nhiều lao động chưa tìm được việc làm đúng chuyên ngành đào tạo. Việc thành lập trường đại học, mở các ngành nghề chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào tạo, chưa bám sát nhu cầu thị trường lao động là một trong những căn nguyên khiến tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học rất khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Để gỡ nút thắt trong thực trạng đào tạo tại các trường đại học hiện nay, cũng như vấn đề “thừa thầy, thiếu thợ”, thiếu hụt nguồn lao động tại các doanh nghiệp, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa cung - cầu lao động và vận dụng sáng tạo nguyên lý kết hợp giữa các khâu “Đào tạo - Nghiên cứu - Sản xuất”. Việc đào tạo nguồn nhân lực có đầy đủ các kiến thức nền tảng, chuyên ngành và kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm, thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số và sự phát triển của các doanh nghiệp là hướng đi phù hợp, mang tính tất yếu khách quan. Bài báo này sử dụng phương pháp khảo sát, lấy ý kiến chuyên gia nhằm thu thập các dữ liệu thực tế và hình thành thang đo. Trên cơ sở đó, thực hiện phân tích độ tin cậy của thang đo và phân tích nhân tố, kiểm định giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu đã hình thành được thang đo lý thuyết nhằm đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu việc làm của sinh viên tại các doanh nghiệp hiện nay; đồng thời, giúp các trường đại học thực hiện định hướng điều chỉnh nội dung và phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ cho quá trình phát triển các doanh nghiệp số trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Download
Thị trường nhà ở thương mại tại TP. Hồ Chí Minh nhìn từ khía cạnh chính sách giá cả
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Vấn đề về nhà ở đã và đang là vấn đề bức xúc tại VN nói chung, thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) nói riêng. Theo đánh giá chung, khó khăn trong phát triển nhà ở thương mại tại TP. HCM là do giá đất quá cao, mất cân đối cung cầu và thị trường nhà ở thương mại phát triển chưa bền vững, môi trường pháp lý chưa thật sự hỗ trợ cho thị trường này phát triển. Đến nay vẫn chưa có giải pháp tối ưu để giảm giá nhà ở cũng như tạo điều kiện cho người dân cải thiện chỗ ở. Bài viết nghiên cứu khía cạnh giá cả nhà ở thương mại thông qua các phương pháp tính giá, đánh giá thực trạng chính sách giá nhà ở thương mại, từ đó đưa ra một số gợi ý về phương pháp tính giá nhà ở thương mại và các giải pháp hỗ trợ về cầu nhà ở cho các tầng lớp dân cư áp dụng tại TP. HCM.
Download
Phụ thuộc không gian của tham nhũng ở Việt Nam
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Các nghiên cứu về tham nhũng trước đây hầu hết bỏ qua tác động lan truyền không gian của tham nhũng. Bài viết này lập luận rằng có sự phụ thuộc không gian của tham nhũng giữa các địa phương ở Việt Nam. Sử dụng số liệu bảng cân đối ở cấp tỉnh trích từ Khảo sát năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và Tổng cục Thống kê, nghiên cứu này đã kiểm định và kết luận mô hình phụ thuộc không gian Durbin với hiệu ứng cố định là mô hình ước lượng phù hợp. Kết quả ước lượng cho thấy có sự phụ thuộc không gian của tham nhũng giữa các tỉnh ở Việt Nam. Sự ảnh hưởng lan truyền không gian của tham nhũng được giải thích thông qua cơ chế học hỏi từ người di cư, thể chế pháp lý và tính minh bạch trong quản trị địa phương. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này làm cơ sở cho việc đề xuất những chính sách phòng, chống tham nhũng và sự lây lan của tham nhũng ở Việt Nam.
Download
Phân tích thuyết trò chơi 3 chiều trong quá trình Doanh nghiệp xử lý ô nhiễm môi trường
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Hiện nay, vấn đề Doanh nghiệp và ô nhiễm môi trường ở nước ta diễn ra ngày càng trở nên nghiêm trọng. Điều này đã và đang làm hạn chế đến việc phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội. Trong khi đó, trong quá trình sản xuất, Doanh nghiệp có đồng ý chấp thuận theo quy định môi trường hay không?. Không chỉ là chịu sự áp lực kiểm tra của Chính phủ, mà còn phải chịu dưới sự giám sát của môi trường tổ chức phi Chính phủ. Vì vậy, để thực hiện tốt chính sách, các bên có chấp hành theo quy định môi trường là mối quan hệ thuyết trò chơi ba chiều. Bao gồm các bên như : Chính phủ - Doanh nghiệp - môi trường tổ chức phi Chính phủ . Kết cấu bài viết được xây dựng theo mô hình thuyết chò trơi 3 chiều, phân tích sự cân bằng lợi ích giữa các mối quan hệ trong việc xử lý ô nhiễm môi trường. Qua phân tích kết quả cho thấy rằng: Chính sách phạt tiền của Chính phủ đối với Doanh nghiệp gây ra ô nhiễm sẽ hiệu quả hơn so với việc trợ cấp từ Chính phủ; ngoài ra, nếu tăng mức phạt và tăng trợ cấp sẽ làm giảm đi tính tích cực của Doanh nghiệp trong việc chấp hành theo các quy định bảo vệ môi trường; Mức độ giám sát môi trường NGO ảnh hưởng đến việc kiểm tra của Chính phủ, nhưng không ảnh hưởng trực tiếp đến việc chấp hành theo quy định của Doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải xây dựng cơ chế thưởng phạt và khích lệ hợp lý, duy trì và ủng hộ môi trường NGO phát triển, khích lệ Doanh nghiệp sáng tạo kỹ thuật, các quy định môi trường mới có thể tác dụng hiệu quả trong việc quản lý Doanh nghiệp, mới thực hiện tốt mục tiêu duy trì và phát triển bền vững lâu dài.
Download
Khung phân tích đô thị thông minh: Nghiên cứu tình huống các tỉnh/thành Đông Nam Bộ
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu xác định khung phân tích đô thị thông minh từ tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm ở các đô thị trên thế giới, đồng thời, phân tích xu hướng tiệm cận đô thị thông minh ở 6 tỉnh/thành Đông Nam bộ, bao gồm: TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và Bà Rịa - Vũng Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy TP.HCM với chỉ số đô thị thông minh (Smart City Index – SCI) 0,86 là thành phố chiếm ưu thế lớn nhất trong hầu hết các yếu tố đánh giá chỉ số đô thị thông minh vùng. Trong khi đó, với chỉ số được xem là thấp nhất khi tiệm cận đô thị thông minh: SCI: –0,90, có thể thấy năng lực cạnh tranh và cơ sở hạ tầng về văn hóa, y tế, giáo dục của Bình Phước còn cần nhiều nỗ lực phải cải thiện. Bình Dương (SCI = 0,36) hiện đang có thế mạnh trong trụ cột quản trị và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bà Rịa - Vũng Tàu (SCI = –0,41) đã và đang làm tốt trụ cột môi trường thông minh trong khi Đồng Nai (SCI = 0,06) có lợi thế trong tiệm cận trụ cột kinh tế thông minh về tăng trưởng, và Tây Ninh vẫn còn nhiều khoảng cách trên các trụ cột hướng đến đô thị thông minh (SCI = –0,30). Để thực hiện mục tiêu hướng đến đô thị thông minh, các tỉnh/thành Đông Nam bộ cần tập trung vào ba nội dung quan trọng, bao gồm: (1) Nâng cao tính kết nối và chất lượng cơ sở hạ tầng vùng; (2) Tiếp tục cải thiện vốn con người về kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo; và (3) Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông theo hệ sinh thái đô thị phức hợp.
Download
|