|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 32(8)
, Tháng 8/2021, Trang 24-38
|
|
Phân tích sự đóng góp của vốn nhân lực đến thu nhập và chênh lệch thu nhập theo yếu tố dân tộc tại đồng bằng sông Cửu Long |
|
Phạm Duy Khánh & Huỳnh Trường Huy |
DOI:
Tóm tắt
Nghiên cứu này vận dụng lý thuyết vốn nhân lực của Mincer nhằm phân tích sự đóng góp của học vấn và kinh nghiệm đến thu nhập và chênh lệch thu nhập đối với 7.558 người lao động thuộc dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số tại đồng bằng sông Cửu Long, dựa vào Dữ liệu khảo sát mức sống dân cư năm 2018 của Tổng cục Thống kê Việt Nam. Phương pháp ước lượng tương quan theo phương trình thu nhập của Mincer và phân tích thành phần Oaxaca và Blinder được sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả phân tích thống kê cho thấy tỷ lệ lao động dân tộc thiểu số chiếm gần 8% tổng số lao động toàn vùng và họ đối mặt với hạn chế về học vấn so với lao động dân tộc Kinh. Liên quan đến thu nhập, lao động dân tộc thiểu số chỉ nhận khoảng 80% (hoặc thấp hơn xấp xỉ 1 triệu đồng/tháng) so với mức thu nhập của lao động dân tộc Kinh trên thị trường lao động. Sự chênh lệch này một phần do ảnh hưởng của hạn chế về vốn nhân lực (chiếm 57%); trong khi đó, sự ảnh hưởng của vốn nhân lực đến chênh lệch thu nhập giữa lao động thành thị và nông thôn chỉ ở mức 22%. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu, một vài hàm ý chính sách liên quan đến đầu tư về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học cho thanh thiếu niên dân tộc thiểu số cần được quan tâm nhằm cải thiện thu nhập và thu hẹp chênh lệch thu nhập trên thị trường lao động.
Từ khóa
Thu nhập, chênh lệch thu nhập, vốn nhân lực, dân tộc thiểu số.
|
Download
|
|
Hiệu quả công việc và vai trò trung gian của sự phát triển, tự chủ của nhân viên ngành trang trí nội thất tại thành phố Hồ Chí Minh
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá và kiểm định mối quan hệ của lãnh đạo trao quyền (EL), Sự phát triển trong công việc (TW), Sự tự chủ trong công việc (JA) đến Hiệu quả công việc của nhân viên (EP) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ngành trang trí nội thất (TTNT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Kết quả nghiên cứu định tính cung cấp bốn lý thuyết nền và bộ thang đo có giá trị phục vụ khảo sát 200 nhân viên bằng kỹ thuật phân tầng. Kết quả được kiểm định mô hình đo lường và mô hình cấu trúc (PLS-SEM) thông qua SmartPLS 4 để xem xét các giả thuyết. Kết quả cho thấy EL tác động tích cực đến EP thông qua vai trò trung gian một phần của TW và JA. Kết quả đóng góp bổ sung vai trò của TW và JA trong việc nghiên cứu tác động của phong cách lãnh đạo đến hiệu quả công việc của nhân viên trong bối cảnh nghiên cứu mới. Từ kết quả của nghiên cứu gợi mở các nhà quản trị chú trọng vào vai trò của EL tạo ra môi trường làm việc tự chủ và phát triển cho nhân viên để nâng cao EP tại các DNVVN ngành TTNT tại TP.HCM
Ngưỡng quy mô tối ưu của doanh nghiệp Việt Nam
2023, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài nghiên cứu được thực hiện để xác định quy mô tối ưu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả phân tích dựa trên số liệu tổng điều tra doanh nghiệp năm 2016 và 2020 cho thấy ngưỡng quy mô tối ưu của các doanh nghiệp ở mức nhỏ, từ 50 đến 99 lao động năm 2016 và từ 25 đến 49 lao động năm 2020. Tỷ lệ doanh nghiệp dưới ngưỡng quy mô tối ưu của Việt Nam đã giảm theo thời gian nhưng vẫn còn ở mức khá cao, trên 70% năm 2020. Kết quả phân tích cũng cho thấy ngưỡng quy mô tối ưu khác nhau theo ngành và vùng kinh tế. Các ngành dịch vụ có quy mô tối ưu nhỏ trong khi đó ngành công nghiệp chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao có quy mô tối ưu lên đến 1000 lao động. Tuy vậy, tỷ lệ doanh nghiệp của ngành này chỉ chiếm 8%. Kết quả từ bài nghiên cứu hàm ý để thúc đẩy tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần thiết kế và thực thi các chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển đến ngưỡng quy mô tối ưu và chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang ngành công nghiệp chế tạo để có thể bắt kịp các nước phát triển. <br><br>Abstract <br>
This study investigates the optimal firm size in Vietnam. Using data from the enterprise census in 2016 and 2020, the study shows that the optimal firm size in Vietnam is small, at 50–99 employees in 2016 and 25–49 employees in 2020. Though the proportion of firms under the optimal size has decreased, the share is still high at over 70% in 2020. The analysis reveals that the optimal firm size varies by industry and region. The service sector has a small optimal firm size while the medium- and high-tech manufacturing industries have an optimal firm size of up to 1000 employees. However, firms in manufacturing industries account for only 8%. Results from the study imply that to promote productivity and economic growth, Vietnam needs to design and implement policies supporting businesses to grow to their optimal size. Furthermore, it should restructure the economy to increase the manufacturing sector share in order to catch up with developed countries.
Download
Cấu trúc việc làm và suất sinh lợi từ vốn con người tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
2023, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Vốn con người từ lâu được xem là một nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, bao gồm nhiều thành phần mà trong đó đào tạo chính thức, kỹ năng tích luỹ được xem là quan trọng nhất. Suất sinh lợi từ vốn con người là khái niệm được đo lường bằng các giá trị sinh lợi từ vốn con người tạo ra cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng bộ dữ liệu điều tra lao động Việt Nam (LFS) năm 2020 với 49.207 quan sát sau khi chọn lọc để ước lượng và đánh giá suất sinh lợi của vốn con người tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thông qua mô hình Heckman. Kết quả nghiên cứu cho thấy suất sinh lợi gắn liền với vốn con người của người lao động, việc thúc đẩy gia tăng vốn con người ở tất cả các khía cạnh đều thúc đẩy mức sinh lợi càng cao. <br><br> Abstract <br>
Human capital has long been considered an important resource of enterprises, including many components in which formal training and accumulated skills are considered the most important. Human capital return is a concept measured by the profitable values created by human capital for businesses. This study used the Heckman model to estimate and analyze the rate of return on human capital in the southern key economic region of Vietnam using the 2020 Vietnam Labor Force Survey (LFS) dataset with 49,207 observations after selection. According to the research findings, the rate of return connected with worker human capital, boosting the expansion of human capital in all aspects encourages a greater level of profitability.
Download
Mối quan hệ giữa nhận thức, sự tham gia trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, và vốn tâm lý của nhân viên: Vai trò điều tiết của bản sắc đạo đức
2023, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Dựa trên lý thuyết trao đổi xã hội và lý thuyết nhận dạng xã hội, nghiên cứu này nhằm xem xét tác động của nhận thức trách nhiệm xã hội (CSR) và sự tham gia CSR đến vốn tâm lý của nhân viên và vai trò điều tiết của bản sắc đạo đức. Dữ liệu thu thập được từ cuộc khảo sát trực tuyến với 500 nhân viên làm việc tại các doanh nghiệp thực hiện CSR trên địa bàn Hà Nội, kết quả mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) cho thấy cả nhận thức CSR và sự tham gia CSR đều có tác động tích cực đến vốn tâm lý, đồng thời khẳng định vai trò điều tiết của bản sắc đạo đức. Ngoài ra, tác động tích cực của sự tham gia CSR tới vốn tâm lý cũng là một phát hiện của nghiên cứu này. Các hàm ý chính sách cho các doanh nghiệp và nhà nước nhằm nâng cao nhận thức, sự tham gia các hoạt động CSR và định hướng đạo đức của nhân viên được đưa ra. <br><br> Abstract <br>
Based on social exchange theory and social identity theory, this study aims to investigate the impact of Corporate Social Responsibility (CSR) perception and CSR participation on employees' PsyCap and the moderating role of moral identity. By using data collected from an online survey with 500 employees working at enterprises implementing CSR in Hanoi and employing structural equation modeling (SEM) analysis, the research result shows that both CSR perception and CSR participation of employees have positive impacts on PsyCap as well as affirms the moderating effect of moral identity. In addition, the positive impact of CSR participation on CSR perception is also a finding of this study. Policy implications for businesses and the state to raise a perception, participation in CSR activities, and moral orientation of employees are provided.
Download
Lãnh đạo chuyển dạng, niềm tin cảm xúc, động lực nội tại và sự sáng tạo: Một phân tích tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính Việt Nam
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu nhằm khám phá mối quan hệ giữa các nhân tố lãnh đạo chuyển dạng (Transformational leadership - LĐCD), niềm tin cảm xúc (Affective trust - NTCX), động lực nội tại (Intrinsic motivation - ĐLNT) và sự sáng tạo (Creativity - SST). Nghiên cứu thực hiện tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính tại Việt Nam bằng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp gồm định tính và định lượng. Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng LĐCD và NTCX có mối quan hệ dương với ĐLNT và SST, LĐCD có mối quan hệ dương với NTCX, ĐLNT có mối quan hệ dương với SST, ĐLNT là biến trung gian ảnh hưởng đến sự tác động của LĐCD, đồng thời NTCX lên SST, NTCX là biến trung gian ảnh hưởng đến sự tác động của LĐCD lên SST. Kết quả nghiên cứu giúp các nhà quản trị chú trọng vào vai trò tiền tố của LĐCD là nguồn gốc hình thành NTCX, ĐLNT, SST để nâng cao tính sáng tạo từ đó cải thiện chất lượng giáo dục đại học. Kết quả của nghiên cứu kỳ vọng lấp một khoảng trống quan trọng trong lý thuyết vốn nhân lực với nét đặc trưng của lĩnh vực giáo dục đại học công lập tự chủ tài chính tại Việt Nam. <br> <br> <strong>Abstract</strong>
The purpose of the study is to explore the relationship between the factors Transformational leadership, Affective trust, Intrinsic motivation, and Creativity. Conducting this research at self-finance public universities in Vietnam by combining the qualitative and quantitative methods. Data were collected via questionnaire reference. Research results show that Transformational leadership and Affective trust have positive relationships with Intrinsic motivation and Creativity, Transformational leadership has a positive relationship with Affective trust, Intrinsic motivation has a positive relationship with Creativity, Intrinsic motivation is the mediating variable affecting the impact of Transformational leadership and Affective trust on Creativity, Affective trust is the mediating variable influence on the effect of Transformational leadership on Creativity. As a result, early relief helps important leaders into the role of the prefix of Transformational leadership as the origin to Affective trust, Intrinsic motivation, Creativity to enhance creativity thereby improving the quality of higher education. Research results are expected to fill an important gap on the theory of human capital in Vietnamese self-finance public higher education.
Download
|