|
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á |
Năm thứ. 32(4)
, Tháng 4/2021, Trang 21-35
|
|
Tác động của chất lượng nguồn nhân lực và nợ công lên phát triển tài chính – Nghiên cứu trường hợp Việt Nam và các nước mới nổi |
|
Nguyễn Văn Chiến |
DOI:
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá tác động của nợ công và chất lượng nguồn nhân lực lên phát triển tài chính ở 27 quốc gia mới nổi tại châu Á giai đoạn 2009–2019. Bằng nghiên cứu định lượng sử dụng mô hình hồi quy gộp, mô hình tác động cố định, mô hình tác động ngẫu nhiên và mô hình hồi quy tổng quát, kết quả nghiên cứu cho thấy nợ công và chất lượng nguồn nhân lực có tác động tích cực lên phát triển tài chính tại các quốc gia châu Á thuộc mẫu nghiên cứu. Trong bối cảnh các quốc gia sử dụng nợ công để đầu tư phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu không tìm được tác động của yếu tố tương tác này đối với phát triển tài chính. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy các quốc gia tại khu vực Đông Á có mức độ phát triển tài chính cao nhất khu vực châu Á.
Từ khóa
Tài chính; Vốn nhân lực; Nợ công; Châu Á; Tương tác.
|
Download
|
|
Khảo sát hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng thế giới trong giai đoạn trước và sau đại dịch COVID-19: Tiếp cận bằng các kiểm định nghiệm đơn vị phía phải
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết sử dụng giá vàng giao sau trên thị trường vàng thế giới trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 12 năm 2023 để kiểm định hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng. Phương pháp kiểm định là kiểm định GSADF của Phillips, Shi & Yu (2015). Kết quả kiểm định chung trên toàn bộ mẫu số liệu cho thấy không có bong bóng trên thị trường vàng trong giai đoạn trước khi COVID-19 bùng phát trên toàn cầu nhưng trong giai đoạn COVID-19 bắt đầu lan rộng thì có hiện tượng bong bóng trên thị trường vàng. Nếu xét chi tiết theo từng khung cửa sổ cuộn của kiểm định GSADF, có thể thấy rằng có 3 khoảng thời gian mà thị trường vàng được ghi nhận xảy ra bong bóng. Một là, giai đoạn từ tháng 5 năm 2019 đến tháng 9 năm 2019 với sự kiện chiến tranh thương mại Mỹ - Trung xảy ra trước đó. Hai là, giai đoạn từ tháng 7 và tháng 8 năm 2020; là giai đoạn mà COVID-19 đang bùng phát mạnh và nhanh chóng lan ra toàn cầu; cùng với tuyên bố cấm nhập khẩu dầu từ Nga của chính quyền Mỹ và Anh. Ba là, thời điểm tháng 3 năm 2022; tương ứng với tình hình chiến sự giữa Nga và Ukraine. Đây đều là những mốc sự kiện chính trị quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường vàng nói riêng.
Tác động của tạo thanh khoản đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam – Vai trò của tăng vốn chủ sở hữu ngân hàng
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích tác động của tạo thanh khoản, tốc độ tăng vốn chủ sở hữu và tương tác giữa tạo thanh khoản và tăng vốn chủ sở hữu đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam bằng cách sử dụng kỹ thuật ước lượng S-GMM và hồi quy phân vị với mẫu gồm 25 NHTM trong giai đoạn 2007 – 2022. Kết quả theo hai phương pháp ước lượng cho thấy tạo thanh khoản làm giảm khả năng sinh lời, ngược lại tăng trưởng vốn chủ sở hữu và tương tác giữa tạo thanh khoản và tăng vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lời. Hơn nữa, kết quả từ phương pháp hồi quy phân vị còn cho thấy tác động tiêu cực của tạo thanh khoản đến khả năng sinh lời không mang tính đồng nhất, mức độ tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời tăng dần theo các phân vị. Tăng vốn chủ sở hữu và tương tác giữa tạo thanh khoản và tăng vốn chủ sở hữu làm tăng khả năng sinh lời, có ý nghĩa thống kê tại các phân vị cao hơn (0.75, 0.8 và 0.9). Từ đó nghiên cứu đề xuất một số hàm ý đối với các nhà quản trị ngân hàng nhằm gia tăng khả năng sinh lời. <br><br> Abstract <br>
The study analyzes the effect of liquidity creation, capital growth rate, and interaction between liquidity creation and capital growth rate on profitability of the Vietnamese commercial banks by employing S-GMM and quantile regression approach for a sample of 25 commercial banks during the 2007–2022 period. The empirical results from both estimation techniques reveal that liquidity creation affects significantly and negatively bank profitability. In contrast, capital growth and the interaction between liquidity creation and capital growth rate increase bank profitability. Furthermore, the results from the quantile regression approach indicate that the negative impact of liquidity creation on profitability is heterogeneous, the level of impact gradually escalates from lower to upper quantiles. Capital growth and the interaction between liquidity creation and capital growth increase profitability, which is statistically significant at the upper quantiles (0,75; 0,8 and 0,9). The study proposes some implications for bank managers to increase bank profitability.
Download
Liệu rằng đầu tư công nghệ thông tin và truyền thông có làm gia tăng doanh thu hoạt động dịch vụ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Trong bối cảnh “chuyển đổi số” đang diễn ra mạnh mẽ, bài báo này xem xét ảnh hưởng của đầu tư công nghệ thông tin và truyền thông đến gia tăng thu nhập dịch vụ tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2012–2020. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp ước lượng với hiệu ứng ngẫu nhiên, hiệu ứng cố định và bình phương tối thiểu tổng quát khả thi cho bộ dữ liệu bảng gồm bộ chỉ số phát triển công nghệ thông tin và truyền thông và dữ liệu từ báo cáo tài chính của các NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ doanh thu dịch vụ trên tổng thu nhập của ngân hàng. Phân tích sâu hơn cho thấy tác động của mức độ phát triển hạ tầng kỹ thuật và chỉ số dịch vụ thông tin làm gia tăng thu nhập dịch vụ của NHTM trong khi đó mức độ phát triển hạ tầng nhân lực làm giảm thu nhập dịch vụ của các NHTM tại Việt Nam. Bài viết của chúng tôi cung cấp một số hàm ý về chiến lược đa dạng hóa danh thu cho các NHTM Việt Nam.
Khảo sát vai trò phòng hộ rủi ro của vàng với thị trường chứng khoán ASEAN6
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bài viết tập trung vào việc kiểm định vai trò của vàng làm tài sản phòng hộ rủi ro và tài sản trú ẩn an toàn trên thị trường chứng khoán ASEAN6, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam. Kết quả cho thấy vàng có thể là công cụ phòng hộ rủi ro yếu cho Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, và là tài sản trú ẩn an toàn mạnh cho thị trường Singapore trong điều kiện thị trường biến động sụt giảm đến mức tỷ suất sinh lợi âm. Vàng cũng được xem là tài sản trú ẩn an toàn yếu ở tất cả các quốc gia còn lại trong ASEAN6. Phương pháp hồi quy phân vị được áp dụng để chi tiết hóa vai trò của vàng ở các mức phân vị sinh lợi khác nhau. Ở Indonesia và Philippines, vàng chỉ có thể đóng vai trò phòng hộ rủi ro khi tỷ suất sinh lợi vàng ở mức thấp. Ở Malaysia và Việt Nam, vàng có thể là tài sản phòng hộ rủi ro khi tỷ suất sinh lợi vàng rất cao hoặc rất thấp, và là tài sản trú ẩn an toàn khi tỷ suất sinh lợi vàng tăng ở mức cao. Ở Singapore và Thái Lan, vàng có thể là tài sản trú ẩn an toàn khi tỷ suất sinh lợi vàng giảm xuống ở mức thấp nhất. Kết quả nghiên cứu mang lại những hàm ý quản trị quan trọng cho nhà đầu tư, khuyến khích sự đa dạng hóa trong danh mục đầu tư và sử dụng thông tin về vai trò của vàng tại các mức giá khác nhau để xây dựng chiến lược thời điểm thị trường.
Rủi ro địa chính trị và thị trường tài chính Việt Nam
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu nhằm ước lượng chỉ số lan tỏa về giá và khảo sát sự tương quan của rủi ro địa chính trị (Geopolitical Risk – GPR) đối với thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn từ 2018-2023 với dữ liệu theo tháng, đặc biệt trong các sự kiện chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, đại dịch COVID-19 và xung đột quân sự Nga-Ukraine. Để làm được điều này, nhóm tác giả vận dụng phương pháp chỉ số lan tỏa giá của Diebold và Yilmaz (2012) và mô hình Cross-Quantilogram của Linton và Wang (2007). Kết quả cho thấy tổng chỉ số lan tỏa đạt 31,4%, ngụ ý tồn tại sự kết dính chặt chẽ giữa GPR, tỷ giá và thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong ngắn hạn, GPR có tác động tiêu cực đối với thị trường tài chính Việt Nam khi ở mức phân vị cao và ngược lại khi GPR ở mức phân vị thấp thì ảnh hưởng tích cực lên thị trường tài chính, tuy nhiên xét đến dài hạn thì tác động này không đáng kể. Kết quả thực nghiệm là nguồn thông tin hữu ích cho nhà đầu tư, nhà quản lý danh mục đầu tư và nhà hoạch định chính sách ứng phó trước sự biến động rủi ro địa chính trị.
|