|
Tạp chí phát triển kinh tế |
Số 234
, Tháng 4/2010, Trang 37-41
|
|
Thị trường cá da trơn Đồng bằng Sông Cửu Long, phân tích hành vi người tiêu dùng cá da trơn nội địa |
|
Đỗ Văn Xê & Châu Thanh Bảo |
DOI:
Tóm tắt
Hiện nay, mặt hàng cá tra, cá basa (cá da trơn) của VN được nhiều thị trường quốc tế ưa chuộng và đang giữ vị trí số một trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản VN. Trong tám tháng đầu năm 2009, sản lượng xuất khẩu cá da trơn là 264.000 tấn, thu được 600 triệu USD. Trong vòng mười năm (1997 - 2006) diện tích nuôi cá da trơn chỉ tăng 7 lần (từ 1.200 ha lên 9.000 ha) trong khi đó sản lượng tăng 36,2 lần (từ 22.500 tấn lên 825.000 tấn). Theo FAO, tổng sản phẩm cá da trơn toàn cầu năm 1995 là 10.000 tấn, năm 2005 là 440.000 tấn, trong khi đó chỉ riêng VN năm 2007 đạt khoảng 1 triệu tấn cá da trơn. Bên cạnh sự tăng trưởng khá hấp dẫn, thị trường cá da trơn của VN cũng gặp không ít khó khăn khách quan lẫn chủ quan. Trong vòng 9 năm liên tiếp có đến 8 lần giá cá da trơn nguyên liệu biến động, vụ kiện bán phá giá cá da trơn trên thị trường Mỹ vào tháng 12/2002, cá da trơn VN phát hiện bị nhiễm kháng sinh Malachite Green, Fluoroquinolones khi xuất khẩu. Tình trạng này cho thấy mặc dù xuất khẩu cá da trơn mang lại lợi nhuận cao, nhưng không ổn định và đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân vùng ĐBSCL vì đây là nơi chủ yếu cung cấp nguyên liệu thô về cá da trơn. Bên cạnh việc xuất khẩu, thị trường nội địa cũng đóng vai trò rất quan trọng nếu chúng ta biết khai thác thì sẽ góp phần đáng kể, làm giảm sự bấp bênh vừa nêu. Để làm được việc này chúng ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, nhất là về các vấn đề liên quan đến nhu cầu và tiến trình quyết định mua của họ để từ đó tìm ra các biện pháp phù hợp vừa gia tăng thị phần nội địa, giúp thu nhập của người nuôi cá được ổn định hơn vừa giúp cho người dân trong nước có được nguồn thức ăn bổ dưỡng hợp với thu nhập của mình.
Từ khóa
cá da trơn, ĐBSCL, tiêu dùng, hành vi
|
Download
|
|
Ảnh hưởng của công nghệ Blockchain đến ý định mua thực phẩm của người tiêu dùng tại Hà Nội, Việt Nam
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Sử dụng mô hình tâm lý học SOR (Stimulus - Organism - Response) cùng với phương pháp nghiên cứu định lượng - khảo sát trên diện rộng 244 người tiêu dùng Việt Nam, bài viết phân tích ảnh hưởng của tính truy xuất nguồn gốc ứng dụng Blockchain đến ý định mua thực phẩm của người tiêu dùng. Qua phân tích với công cụ SPSS 26.0 và Amos 26.0, kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng truy xuất nguồn gốc của Blockchain nâng cao chất lượng, tính an toàn và chống giả mạo thực phẩm, từ đó ảnh hưởng tích cực đến niềm tin và cuối cùng là ý định mua hàng của người tiêu dùng. Từ đó, các tác giả đưa ra khuyến nghị cho cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong việc ứng dụng Blockchain nhằm gia tăng niềm tin, ý định mua thực phẩm của người tiêu dùng. <br> Abstract <br><br>
The combination of the Stimulus-Organism-Response (SOR) model with a quantitative research method - a broad survey of 244 consumers living in Vietnam. The authors aim to demonstrate the influence of Blockchain's traceability on consumers' intention to purchase food products. Through analysis using SPSS 26.0, the research results indicated that Blockchain traceability enhanced food quality, safety, and food fraud prevention, consequently had a positive impact on consumer trust and purchase intention. Based on these findings, the authors provided recommendations for authorities and businesses to promote the application of Blockchain in enhancing consumer trust and purchase intention.
Download
Mối quan hệ giữa tín dụng xanh, phát thải CO2 và phát triển kinh tế xanh chất lượng cao tại Việt Nam
2024, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Bằng cách sử dụng dữ liệu từ Tổng cục thống kê và Ngân hàng nhà nước, nghiên cứu phát triển chỉ số đo lường phát triển kinh tế xanh chất lượng cao đồng thời phân tích tác động của tín dụng xanh và phát thải CO2 đến phát triển kinh tế xanh chất lượng cao của 63 tỉnh, thành tại Việt Nam bằng mô hình không gian Durbin. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng phát triển kinh tế xanh chất lượng cao tại 63 tỉnh/thành đã tăng từ 2015 đến 2019, nhưng suy giảm giảm trong giai đoạn đại dịch COVID-19 (2020-2021). Tín dụng xanh và phát thải CO2 không chỉ trực tiếp tác động lên chất lượng kinh tế xanh của một tỉnh thành mà còn có tác động lan tỏa sang các tỉnh thành lân cận. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp chính sách như cải thiện khung pháp lý, thành lập các thể chế chuyên biệt, giảm thuế và hệ thống chứng nhận tiêu chuẩn hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tài chính xanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Download
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục mua TPTS của Gen Z trên sàn thương mại điện tử trong thời điểm bình thường mới
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Dịch bệnh Covid-19 lan rộng dẫn tới hình thức mua sắm trực tuyến trên các sàn thương mại điện tử (TMĐT) trở nên vượt trội hơn vì trong thời gian giãn cách xã hội, người dân bị hạn chế đi lại. Do vậy, nhu cầu mua các loại thực phẩm, hàng hóa của người tiêu dùng tăng mạnh. Tuy nhiên, trong thời điểm “Bình thường mới” hiện tại, liệu họ còn chọn lựa hình thức mua trực tuyến hay quay về các hình thức truyền thống trước đây? Để giải đáp, tác giả đã quyết định làm đề tài để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới ý định tiếp tục mua thực phẩm tươi sống (TPTS) trên sàn TMĐT của genZ. Đề tài sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng. Sau khi thu thập, làm sạch, và thu được 289 mẫu hợp lệ, tiến hành phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS 26. Kết quả chỉ ra rằng biến thói quen, chất lượng sản phẩm, giá sản phẩm tác động đến ý định tiếp tục mua TPTS trên sàn TMĐT. Kết quả này giúp các nhà quản trị có những giải pháp để thu hút khách hàng tiếp tục mua thực phẩm trên sàn TMĐT trong thời điểm bình thường mới. <br><br> Abstract <br>
The widespread COVID-19 epidemic has led to online shopping on e-commerce platforms becoming superior because people are restricted from traveling during social distancing. As a result, consumers' demand for food and goods has increased sharply. However, in the current "New Normal," will they still choose to buy online or return to the traditional forms of before? This study explores the factors affecting the intention to continue buying fresh food on the e-commerce platform of genZ. The study used both qualitative and quantitative methods. Two hundred eighty-nine valid samples were collected online, and SPSS software was used to analyze the research model. The results show that variables such as habit, product quality, and product price affect the intention to buy fresh food on e-commerce platforms. This result helps administrators find solutions to attract customers to continue buying food on e-commerce platforms in the new normal.
Download
Sự căng thẳng và mức độ hài lòng về lợi nhuận đầu tư: Nghiên cứu thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn đại dịch COVID-19
2022, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Mối quan hệ giữa sự căng thẳng khi đại dịch COVID-19 bùng phát và mức độ hài lòng về lợi nhuận của nhà đầu tư cá nhân chưa được khám phá. Do đó, nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ này, dựa trên dữ liệu điều tra 437 nhà đầu tư cá nhân đang giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ tháng 2 đến tháng 7 năm 2021. Kết quả tìm thấy sự căng thẳng tác động ngược chiều với mức độ hài lòng về lợi nhuận sau khi kiểm soát các biến về tính cách và nhân khẩu học. Trong vai trò điều tiết, sự căng thẳng làm thay đổi mối quan hệ giữa tính dễ chịu, tính hướng ngoại và mức độ hài lòng về lợi nhuận. Nhà đầu tư nam ít căng thẳng và có mức độ hài lòng về lợi nhuận cao hơn so với nhà đầu tư nữ. Kết quả nghiên cứu hàm ý đến các nhà chính sách, đặc biệt đến các thị trường tài chính có số lượng nhà đầu tư cá nhân tham gia chiếm đa số, trong việc kiểm soát dịch bệnh COVID-19 hiệu quả hơn. Điều này giúp nhà đầu tư giảm bớt căng thẳng, tăng mức độ hài lòng về lợi nhuận, và qua đó, họ có thêm động lực để tiếp tục tham gia thị trường tài chính, góp phần phát triển nền kinh tế. <br> <br> <strong>Abstract </strong> <br>
Literature on the effect of perceived stress and perceived performance is under-explored. Therefore, this study examines this relationship, using the 2021 survey data on 437 individual investors in the Vietnamese stock market, from February to July 2021. The results show that perceived stress has a negative effect on perceived performance after controlling for Big Five traits and demographics. In addition, the perceived stress significantly moderates the association between agreeableness, extraversion, and perceived performance. Male investors are less stressed and more satisfied with the achieved returns than female investors. Our findings have implications for policymakers, especially for financial markets where individual investors are the primary participants, in controlling the COVID-19 epidemic more effectively. More interventions to prevent the spread of the disease help investors reduce stress and increase their satisfaction with profits, which motivates them to continue to participate in the financial market and contribute to the development of the economy.
Download
Ngôn ngữ lạc quan của báo cáo thường niên và tài trợ doanh nghiệp: Bằng chứng tại Việt Nam
2020, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á
Mở rộng
Tóm tắt
Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của sự lạc quan của nhà quản lý lên đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên hai sở giao dịch chứng khoán chính thức của Việt nam. Chúng tôi xây dựng một thước đo mới đại diện cho sự lạc quan của nhà quản lý được rút ra từ sắc thái ngôn ngữ của phần văn bản của báo cáo thường niên, giai đoạn nghiên cứu từ 2010 đến 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp được điều hành bởi nhà quản lý lạc quan có đòn bẩy tài chính cao hơn, có xu hướng gia tăng tài trợ nợ bên ngoài khi đối diện với tình trạng thâm hụt tài chính. Kết quả này phù hợp với lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm trước đây về hành vi tài trợ tuân theo lý thuyết trật tự phân hạng khi nhà quản lý có xu hướng quá lạc quan.
Download
|