2025
Năm thứ. 36(10), Tháng 10/2025
Năm thứ. 36(9), Tháng 9/2025
Năm thứ. 36(8), Tháng 8/2025
Năm thứ. 36(7), Tháng 7/2025
Năm thứ. 36(6), Tháng 6/2025
Năm thứ. 36(5), Tháng 5/2025
Năm thứ. 36(4), Tháng 4/2025
Năm thứ. 36(3), Tháng 3/2025
Năm thứ. 36(2), Tháng 2/2025
Năm thứ. 36(1), Tháng 1/2025
2024
Năm thứ. 35(12), Tháng 12/2024
Năm thứ. 35(11), Tháng 11/2024
Năm thứ. 35(10), Tháng 10/2024
Năm thứ. 35(9), Tháng 9/2024
Năm thứ. 35(8), Tháng 8/2024
Năm thứ. 35(7), Tháng 7/2024
Năm thứ. 35(6), Tháng 6/2024
Năm thứ. 35(5), Tháng 5/2024
Năm thứ. 35(4), Tháng 4/2024
Năm thứ. 35(3), Tháng 3/2024
Năm thứ. 35(2), Tháng 2/2024
Năm thứ. 35(1), Tháng 1/2024
2023
Năm thứ. 34(12), Tháng 12/2023
Năm thứ. 34(11), Tháng 11/2023
Năm thứ. 34(10), Tháng 10/2023
Năm thứ. 34(9), Tháng 9/2023
Năm thứ. 34(8), Tháng 8/2023
Năm thứ. 34(7), Tháng 7/2023
Năm thứ. 34(6), Tháng 6/2023
Năm thứ. 34(5), Tháng 5/2023
Năm thứ. 34(4), Tháng 4/2023
Năm thứ. 34(3), Tháng 3/2023
Năm thứ. 34(2), Tháng 2/2023
Năm thứ. 34(1), Tháng 1/2023
2022
Năm thứ. 33(12), Tháng 12/2022
Năm thứ. 33(11), Tháng 11/2022
Năm thứ. 33(10), Tháng 10/2022
Năm thứ. 33(9), Tháng 9/2022
Năm thứ. 33(8), Tháng 8/2022
Năm thứ. 33(7), Tháng 7/2022
Năm thứ. 33(6), Tháng 6/2022
Năm thứ. 33(5), Tháng 5/2022
Năm thứ. 33(4), Tháng 4/2022
Năm thứ. 33(3), Tháng 3/2022
Năm thứ. 33(2), Tháng 2/2022
Năm thứ. 33(1), Tháng 1/2022
2021
Năm thứ. 32(12), Tháng 12/2021
Năm thứ. 32(11), Tháng 11/2021
Năm thứ. 32(10), Tháng 10/2021
Năm thứ. 32(9), Tháng 9/2021
Năm thứ. 32(8), Tháng 8/2021
Năm thứ. 32(7), Tháng 7/2021
Năm thứ. 32(6), Tháng 6/2021
Năm thứ. 32(5), Tháng 5/2021
Năm thứ. 32(4), Tháng 4/2021
Năm thứ. 32(3), Tháng 3/2021
Năm thứ. 32(2), Tháng 2/2021
Năm thứ. 32(1), Tháng 1/2021
2020
Năm thứ. 31(12), Tháng 12/2020
Năm thứ. 31(11), Tháng 11/2020
Năm thứ. 31(10), Tháng 10/2020
Năm thứ. 31(9), Tháng 9/2020
Năm thứ. 31(8), Tháng 8/2020
Năm thứ. 31(7), Tháng 7/2020
Năm thứ. 31(6), Tháng 6/2020
Năm thứ. 31(5), Tháng 5/2020
Năm thứ. 31(4), Tháng 4/2020
Năm thứ. 31(3), Tháng 3/2020
Năm thứ. 31(2), Tháng 2/2020
Năm thứ. 31(1), Tháng 1/2020
2019
Năm thứ. 30(12), Tháng 12/2019
Năm thứ. 30(11), Tháng 11/2019
Năm thứ. 30(10), Tháng 10/2019
Năm thứ. 30(9), Tháng 9/2019
Năm thứ. 30(8), Tháng 8/2019
Năm thứ. 30(7), Tháng 7/2019
Năm thứ. 30(6), Tháng 6/2019
Năm thứ. 30(5), Tháng 5/2019
Năm thứ. 30(4), Tháng 4/2019
Năm thứ. 30(3), Tháng 3/2019
Năm thứ. 30(2), Tháng 2/2019
Năm thứ. 30(1), Tháng 1/2019
2018
Năm thứ. 29(12), Tháng 12/2018
Năm thứ. 29(11), Tháng 11/2018
Năm thứ. 29(10), Tháng 10/2018
Năm thứ. 29(9), Tháng 9/2018
Năm thứ. 29(8), Tháng 8/2018
Năm thứ. 29(7), Tháng 7/2018
Năm thứ. 29(6), Tháng 6/2018
Năm thứ. 29(5), Tháng 5/2018
Năm thứ. 29(4), Tháng 4/2018
Năm thứ. 29(3), Tháng 3/2018
Năm thứ. 29(2), Tháng 2/2018
Năm thứ. 29(1), Tháng 1/2018
2017
Năm thứ. 28(12), Tháng 12/2017
Năm thứ. 28(11), Tháng 11/2017
Năm thứ. 28(10), Tháng 10/2017
Năm thứ. 28(9), Tháng 9/2017
Năm thứ. 28(8), Tháng 8/2017
Năm thứ. 28(7), Tháng 7/2017
Năm thứ. 28(6), Tháng 6/2017
Năm thứ. 28(5), Tháng 5/2017
Năm thứ. 28(4), Tháng 4/2017
Năm thứ. 28(3), Tháng 3/2017
Năm thứ. 28(2), Tháng 2/2017
Năm thứ. 28(1), Tháng 1/2017
2016
Năm thứ. 27(12), Tháng 12/2016
Năm thứ. 27(11), Tháng 11/2016
Năm thứ. 27(10), Tháng 10/2016
Năm thứ. 27(9), Tháng 9/2016
Năm thứ. 27(8), Tháng 8/2016
Năm thứ. 27(7), Tháng 7/2016
Năm thứ. 27(6), Tháng 6/2016
Năm thứ. 27(5), Tháng 5/2016
Năm thứ. 27(4), Tháng 4/2016
Năm thứ. 27(3), Tháng 3/2016
Năm thứ. 27(2), Tháng 2/2016
Năm thứ. 27(1), Tháng 1/2016
2015
Năm thứ. 26(12), Tháng 12/2015
Năm thứ. 26(11), Tháng 11/2015
Năm thứ. 26(10), Tháng 10/2015
Năm thứ. 26(9), Tháng 9/2015
Năm thứ. 26(8), Tháng 8/2015
Năm thứ. 26(7), Tháng 7/2015
Năm thứ. 26(6), Tháng 6/2015
Năm thứ. 26(5), Tháng 5/2015
Năm thứ. 26(4), Tháng 4/2015
Năm thứ. 26(3), Tháng 3/2015
Năm thứ. 26(2), Tháng 2/2015
Năm thứ. 26(1), Tháng 1/2015
2014
Số 290, Tháng 12/2014
Số 289, Tháng 11/2014
Số 288, Tháng 10/2014
Số 287, Tháng 9/2014
Số 286, Tháng 8/2014
Số 285, Tháng 7/2014
Số 284, Tháng 6/2014
Số 284DS, Tháng 6/2014
Số 283, Tháng 5/2014
Số 282, Tháng 4/2014
Số 281, Tháng 3/2014
Số 280, Tháng 2/2014
Số 279, Tháng 1/2014
2013
Số 278, Tháng 12/2013
Số 277, Tháng 11/2013
Số 276, Tháng 10/2013
Số 276DS, Tháng 10/2013
Số 275, Tháng 9/2013
Số 274, Tháng 8/2013
Số 273, Tháng 7/2013
Số 272, Tháng 6/2013
Số 271, Tháng 5/2013
Số 270, Tháng 4/2013
Số 269, Tháng 3/2013
Số 268, Tháng 2/2013
Số 267, Tháng 1/2013
2012
Số 266, Tháng 12/2012
Số 265, Tháng 11/2012
Số 264, Tháng 10/2012
Số 263, Tháng 9/2012
Số 262, Tháng 8/2012
Số 261, Tháng 7/2012
Số 260, Tháng 6/2012
Số 259, Tháng 5/2012
Số 258, Tháng 4/2012
Số 257, Tháng 3/2012
Số 256, Tháng 2/2012
Số 255, Tháng 1/2012
2011
Số 254, Tháng 12/2011
Số 253, Tháng 11/2011
Số 252, Tháng 10/2011
Số 251, Tháng 9/2011
Số 250, Tháng 8/2011
Số 249, Tháng 7/2011
Số 248, Tháng 6/2011
Số 247, Tháng 5/2011
Số 246, Tháng 4/2011
Số 245, Tháng 3/2011
Số 244, Tháng 2/2011
Số 243, Tháng 1/2011
2010
Số 242, Tháng 12/2010
Số 241, Tháng 11/2010
Số 240, Tháng 10/2010
Số 239, Tháng 9/2010
Số 238, Tháng 8/2010
Số 237, Tháng 7/2010
Số 236, Tháng 6/2010
Số 235, Tháng 5/2010
Số 234, Tháng 4/2010
Số 233, Tháng 3/2010
Số 232, Tháng 2/2010
Số 231, Tháng 1/2010
2009
Số 230, Tháng 12/2009
Số 229, Tháng 11/2009
Số 228, Tháng 10/2009
Số 227, Tháng 9/2009
Số 226, Tháng 8/2009
Số 225, Tháng 7/2009
Số 224, Tháng 6/2009
Số 223, Tháng 5/2009
Số 222, Tháng 4/2009
Số 221, Tháng 3/2009
Số 220, Tháng 2/2009
Số 219, Tháng 1/2009
2008
Số 218, Tháng 12/2008
Số 217, Tháng 11/2008
Số 216, Tháng 10/2008
Số 215, Tháng 9/2008
Số 214, Tháng 8/2008
Số 213, Tháng 7/2008
Số 212, Tháng 6/2008
Số 211, Tháng 5/2008
Số 210, Tháng 4/2008
Số 209, Tháng 3/2008
Số 208, Tháng 2/2008
Số 207, Tháng 1/2008
2007
Số 206, Tháng 12/2007
Số 205, Tháng 11/2007
Số 204, Tháng 10/2007
Số 203, Tháng 9/2007
Số 202, Tháng 8/2007
Số 201, Tháng 7/2007
Số 200, Tháng 6/2007
Số 199, Tháng 5/2007
Số 198, Tháng 4/2007
Số 197, Tháng 3/2007
Số 196, Tháng 2/2007
Số 195, Tháng 1/2007
2006
Số 194, Tháng 12/2006
Số 193, Tháng 11/2006
Số 192, Tháng 10/2006
Số 191, Tháng 9/2006
Số 190, Tháng 8/2006
Số 189, Tháng 7/2006
Số 188, Tháng 6/2006
Số 187, Tháng 5/2006
Số 186, Tháng 4/2006
Số 185, Tháng 3/2006
Số 184, Tháng 2/2006
Số 183, Tháng 1/2006
2005
Số 182, Tháng 12/2005
Số 181, Tháng 11/2005
Số 180, Tháng 10/2005
Số 179, Tháng 9/2005
Số 178, Tháng 8/2005
Số 177, Tháng 7/2005
Số 176, Tháng 6/2005
Số 175, Tháng 5/2005
Số 174, Tháng 4/2005
Số 173, Tháng 3/2005
Số 172, Tháng 2/2005
Số 171, Tháng 1/2005
2004
Số 170, Tháng 12/2004
Số 169, Tháng 11/2004
Số 168, Tháng 10/2004
Số 167, Tháng 9/2004
Số 166, Tháng 8/2004
Số 165, Tháng 7/2004
Số 164, Tháng 6/2004
Số 163, Tháng 5/2004
Số 162, Tháng 4/2004
Số 161, Tháng 3/2004
Số 160, Tháng 2/2004
Số 159, Tháng 1/2004
2003
Số 158, Tháng 12/2003
Số 157, Tháng 11/2003
Số 156, Tháng 10/2003
Số 155, Tháng 9/2003
Số 154, Tháng 8/2003
Số 153, Tháng 7/2003
Số 152, Tháng 6/2003
Số 151, Tháng 5/2003
Số 150, Tháng 4/2003
Số 149, Tháng 3/2003
Số 148, Tháng 2/2003
Số 147, Tháng 1/2003
2002
Số 146, Tháng 12/2002
Số 145, Tháng 11/2002
Số 144, Tháng 10/2002
Số 143, Tháng 9/2002
Số 142, Tháng 8/2002
Số 141, Tháng 7/2002
Số 140, Tháng 6/2002
Số 139, Tháng 5/2002
Số 138, Tháng 4/2002
Số 137, Tháng 3/2002
Số 136, Tháng 2/2002
Số 135, Tháng 1/2002
2001
Số 134, Tháng 12/2001
Số 133, Tháng 11/2001
Số 132, Tháng 10/2001
Số 131, Tháng 9/2001
Số 130, Tháng 8/2001
Số 129, Tháng 7/2001
Số 128, Tháng 6/2001
Số 127, Tháng 5/2001
Số 126, Tháng 4/2001
Số 125, Tháng 3/2001
Số 124, Tháng 2/2001
Số 123, Tháng 1/2001
2000
Số 122, Tháng 12/2000
Số 121, Tháng 11/2000
Số 120, Tháng 10/2000
Số 119, Tháng 9/2000
Số 118, Tháng 8/2000
Số 117, Tháng 7/2000
Số 116, Tháng 6/2000
Số 115, Tháng 5/2000
Số 114, Tháng 4/2000
Số 113, Tháng 3/2000
Số 112, Tháng 2/2000
Số 111, Tháng 1/2000
1999
Số 110, Tháng 12/1999
Số 109, Tháng 11/1999
Số 108, Tháng 10/1999
Số 107, Tháng 9/1999
Số 106, Tháng 8/1999
Số 105, Tháng 7/1999
Số 104, Tháng 6/1999
Số 103, Tháng 5/1999
Số 102, Tháng 4/1999
Số 101, Tháng 3/1999
Số 100, Tháng 2/1999
Số 99, Tháng 1/1999
1998
Số 98, Tháng 12/1998
Số 97, Tháng 11/1998
Số 96, Tháng 10/1998
Số 95, Tháng 9/1998
Số 94, Tháng 8/1998
Số 93, Tháng 7/1998
Số 92, Tháng 6/1998
Số 91, Tháng 5/1998
Số 90, Tháng 4/1998
Số 89, Tháng 3/1998
Số 88, Tháng 2/1998
Số 87, Tháng 1/1998
1997
Số 86, Tháng 12/1997
Số 85, Tháng 11/1997
Số 84, Tháng 10/1997
Số 83, Tháng 9/1997
Số 82, Tháng 8/1997
Số 81, Tháng 7/1997
Số 80, Tháng 6/1997
Số 79, Tháng 5/1997
Số 78, Tháng 4/1997
Số 77, Tháng 3/1997
Số 76, Tháng 2/1997
Số 75, Tháng 1/1997
1996
Số 74, Tháng 12/1996
Số 73, Tháng 11/1996
Số 72, Tháng 10/1996
Số 71, Tháng 9/1996
Số 70, Tháng 8/1996
Số 69, Tháng 7/1996
Số 68, Tháng 6/1996
Số 67, Tháng 5/1996
Số 66, Tháng 4/1996
Số 65, Tháng 3/1996
Số 64, Tháng 2/1996
Số 63, Tháng 1/1996
1995
Số 62, Tháng 12/1995
Số 61, Tháng 11/1995
Số 60, Tháng 10/1995
Số 59, Tháng 9/1995
Số 58, Tháng 8/1995
Số 57, Tháng 7/1995
Số 56, Tháng 6/1995
Số 55, Tháng 5/1995
Số 54, Tháng 4/1995
Số 53, Tháng 3/1995
Số 52, Tháng 2/1995
Số 51, Tháng 1/1995
1994
Số 50, Tháng 12/1994
Số 49, Tháng 11/1994
Số 48, Tháng 10/1994
Số 47, Tháng 9/1994
Số 46, Tháng 8/1994
Số 45, Tháng 7/1994
Số 44, Tháng 6/1994
Số 43, Tháng 5/1994
Số 42, Tháng 4/1994
Số 41, Tháng 3/1994
Số 40, Tháng 2/1994
Số 39, Tháng 1/1994
1993
Số 38, Tháng 12/1993
Số 37, Tháng 11/1993
Số 36, Tháng 10/1993
Số 35, Tháng 9/1993
Số 34, Tháng 8/1993
Số 33, Tháng 7/1993
Số 32, Tháng 6/1993
Số 31, Tháng 5/1993
Số 30, Tháng 4/1993
Số 29, Tháng 3/1993
Số 28, Tháng 2/1993
Số 27, Tháng 1/1993
1992
Số 26, Tháng 12/1992
Số 25, Tháng 11/1992
Số 24, Tháng 10/1992
Số 23, Tháng 9/1992
Số 22, Tháng 8/1992
Số 21, Tháng 7/1992
Số 20, Tháng 6/1992
Số 19, Tháng 5/1992
Số 18, Tháng 4/1992
Số 17 (Số tháng 2-3), Tháng 3/1992
Số 16, Tháng 1/1992
1991
Số 15, Tháng 12/1991
Số 14, Tháng 11/1991
Số 13, Tháng 10/1991
Số 12, Tháng 9/1991
Số 11, Tháng 8/1991
Số 10 (Tháng 6-7), Tháng 7/1991
Số 9, Tháng 5/1991
Số 8, Tháng 4/1991
Số 7, Tháng 2/1991
Số 6, Tháng 1/1991
1990
Mở rộng
|
| Năm thứ. 35(12) , Tháng 12/2024 |
|
|
| |
Chính sách thúc đẩy tăng trưởng từ kết quả ứng dụng khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của doanh nghiệp Việt Nam
(trang 14-25)
Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.03
Tóm tắt
Bài viết “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhân dịp kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945–2/9/2024) đã nhấn mạnh rất rõ vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo, và cách mạng chuyển đổi số đối với vận mệnh của quốc gia và dân tộc. Thế giới hậu COVID-19 đang chìm trong cơn xoáy về bất ổn, những biến động đa chiều từ địa chính trị, kinh tế, và xã hội đan xen nhau, tạo nên bối cảnh đầy thách thức cho các quốc gia. Việt Nam cũng không ngoại lệ, khi những bất ổn đã và đang len lỏi vào mọi ngõ ngách của nền kinh tế. Giữa vòng xoáy bất ổn như vậy, trong nguy có cơ, việc ứng dụng khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ là hy vọng cho các chủ thể trong nền kinh tế để thích ứng trước những bất ổn. Chiến lược này mang đến những cơ hội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và nâng cao năng lực cạnh tranh cho trụ cột của nền kinh tế là các doanh nghiệp. Cốt lõi phải lấy nền tảng khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm kim chỉ nam trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên tiềm năng, vị thế sẵn có.
<br><br>Abstract <br>
The article “Digital Transformation - An Important Driving Force for Developing Productive Forces, Perfecting Production Relations, and Bringing the Country into a New Era” by General Secretary and President To Lam, published on the occasion of the 79th anniversary of the National Day of the Socialist Republic of Vietnam (September 2, 1945 - September 2, 2024), clearly emphasizes the critical role of science and technology applications, innovation, and the digital transformation revolution in shaping the nation’s destiny. The post-COVID-19 world is immersed in a whirlwind of instability, marked by multi-dimensional fluctuations in geopolitics, economics, and society. These intertwined challenges create a daunting landscape for many nations, and Vietnam is no exception. Instability has been and continues to creep into every corner of its economy. Amid such an uncertain environment, where opportunity often coexists with danger, the application of science and technology, innovation, and digital transformation emerges as a beacon of hope. This strategy presents opportunities to promote innovation and enhance the competitiveness of the economy's key pillars—enterprises. At its core, the strategy must prioritize science and technology, innovation, and digital transformation as guiding principles, leveraging available resources and the nation’s inherent potential and strategic position.
Vai trò của chính sách vĩ mô thận trọng trong chuyển đổi xanh và hàm ý chính sách cho Việt Nam
(trang 38-50)
Đinh Thị Thu Hồng & Trần Ngọc Thơ & Nguyen Huu Tuan & Trần Thị Hải Lý
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.01
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích vai trò chính sách vĩ mô thận trọng (Macroprudential Policy) trong quá trình chuyển đổi xanh và các gợi ý chính sách cho Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính sách vĩ mô thận trọng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu hướng đến mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng, nhưng chưa có nhiều công cụ khuyến khích tăng trưởng tín dụng xanh. Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cần thiết nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thiết kế chính sách vĩ mô thận trọng, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể điều chỉnh mục tiêu của các công cụ chính sách này nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy đầu tư vào tài sản “xanh”, ổn định hệ thống tài chính, ổn định thị trường ngoại hối trước những cú sốc lớn có thể phát sinh từ biến đổi khí hậu. Định hướng này do vậy cần được chú trọng trong các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, bên cạnh nhiệm vụ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, nhằm hướng tới các mục tiêu chuyển đổi xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
<br><br>Abstract<br>
This study analyzes the role of macroprudential policy in the green transition process and provides implications for Vietnam. The findings reveal that Vietnam's current macroprudential policies focus mainly on controlling credit growth, with only a few tools dedicated to fostering green credit growth. To achieve the net zero emissions goal by 2050, it is crucial to enhance the State Bank of Vietnam's role in shaping macroprudential policies. The State Bank of Vietnam can recalibrate the targets of these policy tools to promote green assets, stabilize foreign exchange, and fortify financial systems against climate change-induced shocks. Given its pivotal role in steering the green transition and mitigating climate change impacts, it is essential for high-level policy documents, such as the Party Congress Documents, to explicitly include this policy in their discussions alongside monetary and
fiscal policies.
Đánh giá tác động của đổi mới sáng tạo đối với thu nhập dân cư và khuyến nghị chính sách: góc nhìn từ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương
(trang 26-37)
Phan Thị Bích Nguyệt & Phạm Dương Phương Thảo & Nguyễn Thị Hồng Nhâm & Lê Văn
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.02
Tóm tắt
Bài viết đánh giá tác động của các thành phần trong chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương đối với thu nhập bình quân và các nhóm thu nhập (từ nhóm 1 đến nhóm 5) của 63 tỉnh thành Việt Nam trong năm 2023. Với phương pháp hồi quy tuyến tính, kết quả thực nghiệm cho thấy thu nhập dân cư có ảnh hưởng cùng chiều với cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển thị trường, trình độ phát triển doanh nghiệp, sản phẩm tri thức - sáng tạo - công nghệ và các tác động của đổi mới sáng tạo. Từ đó, kết quả nghiên cứu chỉ ra những yếu tố mà mỗi địa phương cần cải thiện nhằm nâng cao chất lượng đổi mới sáng tạo và cải thiện thu nhập dân cư, đó là các yếu tố về thể chế, nguồn vốn con người, nghiên cứu và phát triển. Kết quả của bài viết nêu lên những khuyến nghị chính sách góp phần cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo của từng địa phương. Trong đó, chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đổi mới sáng tạo cũng như thu nhập dân cư.
<br><br>Abstract <br>
This article assesses the impact of components in the provincial innovation index on average income and income groups (from groups 1 to 5) of 63 provinces and cities in 2023. We employ the linear regression method to evaluate impacts of provincial innovation sub-indexes on levels of national income of Vietnam. The empirical results show that population income has a positive impact on indicators of infrastructure, market development, business development, knowledge–creative–technology products and the impacts of innovation. Results indicate factors that each local authority needs to improve the quality of innovation and improve population income, which are factors of institutions, human capital, and research and development. In accordance with empirical findings, we propose policy recommendations to improve the innovation capacity of each locality, such as: (i) high-quality human resources; (ii) international cooperation in training; and (iii) promoting scientific, technological, and innovative activities. In particular, local authorities play an important role in improving the quality of innovation as well as people's income.
Chủ quyền Carbon và hàm ý chính sách phát triển thị trường carbon Việt Nam
(trang 91-105)
Pham Khanh Nam
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.08
Tóm tắt
Thị trường carbon là công cụ chính sách chủ yếu giúp Việt Nam đạt được cam kết giảm phát thải khí nhà kính theo Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contribution ‒ NDC) và mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý và quản lý nhà nước về thị trường carbon chỉ đề cập đến cơ cấu thị trường carbon chung, chưa xác định được hướng tiếp cận đặt nền tảng xây dựng một thị trường hiệu quả và bền vững. Nghiên cứu này đề xuất chủ quyền carbon là hướng tiếp cận chủ đạo để xây dựng thị trường carbon nhằm tối ưu hóa cơ hội kinh tế từ các giao dịch carbon, bảo vệ lợi ích quốc gia trong các đàm phán quốc tế, và góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trong dài hạn. Nghiên cứu khảo lược nền tảng lý thuyết chủ quyền carbon và thảo luận các định hướng ứng dụng tại Việt Nam. Các nền tảng chính của tiếp cận chủ quyền carbon là thị trường hạn ngạch carbon bắt buộc, thị trường tín chỉ carbon tự nguyện có kiểm soát, số hóa hệ thống đăng ký quốc gia và số hóa tín chỉ carbon. <br><br>Abstract <br>
The carbon market is a key policy instrument to help Vietnam achieve its greenhouse gas emission reduction commitments under the Nationally Determined Contribution (NDC) and its goal of net-zero by 2050. However, current legal documents and regulations on the carbon market mainly address its general structure, without establishing a foundational approach for building an effective and sustainable carbon market. This study proposes "carbon sovereignty" as a core approach for developing the carbon market, aiming to optimize economic opportunities from carbon transactions, protect national interests in international negotiations, and contribute to the achievement of long-term sustainable development goals. The paper reviews the theoretical foundations of carbon sovereignty and discusses its potential applications in Vietnam. The main pillars of the carbon sovereignty approach include a mandatory carbon market, a regulated voluntary carbon credit market, digitalization of the national registry system, and digitalization of carbon credits.
Đo lường mức lương đủ sống tối thiểu cấp tỉnh: Phương pháp Anker hiệu chỉnh sử dụng số liệu khảo sát hộ gia đình Việt Nam
(trang 51-71)
Võ Tất Thắng & Nguyễn Thiện Nhân & Nguyễn Đông Phong & Trương Thị Kiều Nhung
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.05
Tóm tắt
Tại Việt Nam, mức lương tối thiểu vẫn còn thấp dù giá cả hàng hóa ngày càng tăng cao cùng với lạm phát và các cú sốc kinh tế. Tuy nhiên, các tài liệu hiện có phần lớn đã bỏ qua việc phân tích thực nghiệm về mức lương đủ sống tối thiểu. Nghiên cứu này sử dụng bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2022 (VHLSS 2022) với 9.392 hộ gia đình để đề xuất một phương pháp tính mức lương đủ sống tối thiểu đáp ứng nhu cầu của một gia đình tiêu chuẩn ở cấp tỉnh. Nghiên cứu xây dựng một phương pháp hiệu chỉnh phù hợp với bối cảnh Việt Nam dựa trên phương pháp GWLC (phương pháp Anker). Kết quả nghiên cứu xác nhận rằng: (1) Có sự chênh lệch lớn giữa mức lương đủ sống tối thiểu giữa các tỉnh/thành phố, cao nhất ở Hà Nội là 18,880 triệu đồng/hộ và thấp nhất ở Lai Châu là 8,368 triệu đồng/hộ; (2) Mức lương tối thiểu được quy định thấp hơn rất nhiều so với mức lương đủ sống ở hầu hết cấp tỉnh, cụ thể thấp hơn khoảng 37,987% ở TP.HCM và 36,277% ở Hà Nội so với mức lương đủ sống tối thiểu. <br><br> Abstract <br>
In Vietnam, the minimum wage remains low despite rising prices, inflation, and economic shocks. However, existing literature largely overlooks empirical analysis of the minimum living wage. This study utilizes data from the 2022 Vietnam Household Living Standards Survey (VHLSS 2022) with 9,392 households to propose a method for calculating the minimum living wage for a standard provincial household. The study develops an adjusted approach suitable for the Vietnamese context based on the GWLC (Anker) methodology. The research results confirm: (1) There is a significant discrepancy in the minimum living wage across provinces/cities, with the highest being in Hanoi at VND 18.880 million per household and the lowest in Lai Chau at VND 8.368 million per household; (2) The statutory minimum wage is significantly lower than the minimum living wage in most provinces, specifically 37.987% lower in Ho Chi Minh City and 36.277% lower in Hanoi compared to the minimum living wage.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ LIÊN KẾT VÙNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2026-2030, TẦM NHÌN 2045
(trang 106-127)
Duc K. Nguyen & Nguyễn Đông Phong
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.07
Tóm tắt
Bài viết đề xuất tóm tắt một số định hướng nhằm tối ưu hóa việc thúc đẩy quá trình phát triển và liên kết vùng (PT&LKV), với mong muốn phát huy vai trò của vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước, đưa các vùng trở thành vùng phát triển năng động và bền vững. Các định hướng PT&LKV trong bài viết này được dựa trên cơ sở (1) lược khảo các nghiên cứu trước đó về các mô hình PT&LKV trên thế giới; (2) quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc PT&LKV tại Việt Nam; và (3) nhận diện một số điểm nghẽn thông qua việc phân tích tình hình KT-XH của sáu vùng. <br><br>ABSTRACT<br>
This study delineates strategic orientations for optimizing regional development and interregional linkages in Vietnam, intending to enhance the role of regions in the nation’s socio-economic development and position them as dynamic and sustainable growth hubs. The proposed framework is grounded in three key components: (1) a comprehensive review of global regional development models, (2) an examination of the perspectives of the Party and the State regarding regional development in Vietnam, and (3) a systematic analysis of socio-economic constraints across six regions to identify structural bottlenecks and formulate targeted policy recommendations. This study seeks to strengthen Vietnam’s overall economic resilience and long-term growth trajectory by emphasizing regional integration and sustainable development.
Lựa chọn các ngành kinh tế quan trọng và có lợi thế so sánh ở Việt Nam
(trang 72-90)
Võ Tất Thắng & Nguyễn Thị Bích Hiền & Trần Mỹ Huyền
Bản điện tử: 11 Jun 2025 | DOI: 10.24311/jabes/2024.35.12.06
Tóm tắt
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích thương số vị trí (Location Quotient - LQ) và phân tích Shift-Share để xác định 5 ngành quan trọng của Việt Nam, bao gồm: công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng, dịch vụ lưu trú và ăn uống, thương nghiệp, và nông lâm thủy sản.
Kết quả cho thấy ngành công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng và dịch vụ lưu trú ăn uống là những ngành “nổi bật”, định hình đặc điểm quốc gia và có tiềm năng phát triển. Ngành thương nghiệp và nông lâm thủy sản tuy có quy mô lớn nhưng lợi thế cạnh tranh đang dần suy yếu theo thời gian. So sánh trong khu vực ASEAN, Việt Nam có lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa lao động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng và dịch vụ lưu trú ăn uống, tuy nhiên năng suất lao động vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Sau đó, bài viết dự báo sự phát triển GDP của những ngành này trong giai đoạn 2024-2030.
Từ bài học kinh nghiệm của các nước phát triển như Hà Lan, Trung Quốc, Đức, Đài Loan và Vương quốc Anh, bài nghiên cứu đề xuất các giải pháp và chính sách phát triển phù hợp cho từng ngành của Việt Nam, tập trung vào cải thiện năng suất, hội nhập công nghệ, và phát triển bền vững. <br><br>Abstract <br>
The digital revolution and the popularity of social media platforms have highlighted the role of influencers in shaping consumer behavior, especially in online shopping. This study explores the impact of influencer expertise and trustworthiness on consumer attitude and purchase intention and examines the moderating role of interaction in these relationships. With a sample size of 250 Ho Chi Minh City residents using social media, the study was conducted through convenience sampling and structural equation modeling (PLS-SEM). The results showed that influencer expertise significantly impacts trustworthiness and attitude. In particular, influencer-consumer interaction strongly moderates the relationship between knowledge, trustworthiness, and attitude. The study contributes to enriching the traditional behavioral intention theories and provides practical implications for businesses in selecting and cooperating with influencers.
|
|